Đã
về đã tới (thuật
ngữ, bài hát, lễ lược, tháp miếu) 1.
Pháp
ấn của Làng Mai. Các phép tu của Làng Mai dựa trên giáo
lý Hiện Pháp Lạc Trú, không nhắm mục đích tìm cầu
hạnh phúc trong tương lai, mà giúp hành giả sống sâu sắc
và hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Những giáo
lý và phương pháp thực tập nào đi ngược với nguyên
tắc này đều không phải là những giáo lý và phương
pháp đích thực của Làng Mai, vì vậy nên nói rằng ‘đã
về đã tới’ là pháp ấn của Làng Mai. Mỗi hơi thở,
mỗi bước chân, mỗi động tác, mỗi tư duy hay mỗi lời
nói đều có khả năng đưa hành giả trở về với giây
phút hiện tại. Địa chỉ đích thực của sự sống là
‘bây giờ và ở đây’. Hạnh phúc, tịnh độ, tổ
tiên, niết bàn, giải thoát và chuyển hóa đều phải
được tìm kiếm ngay trong giây phút hiện tại. ‘Ngồi
thiền trong bản môn, giây nào cũng thành đạo, cội nào
cũng bồ đề, tòa nào cũng Đa Bảo’
– (Thơ Từng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt) 2.
Bài
kệ Đã Về Đã Tới có thể được sử dụng trong khi
ngồi, khi đi, khi làm việc, đã được Thầy Làng Mai phổ
nhạc:
Đã về, đã tới. Bây giờ, ở đây. Vững chãi, thảnh
thơi. Quay về, nương tựa. Nay tôi đã về, nay tôi đã
tới. An trú bây giờ, an trú ở đây. Vững chãi như núi
xanh, thảnh thơi dường mây trắng. Cửa vô sinh mở rồi,
trạm nhiên và bất động. 3.
Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 7 đến ngày 15
tháng 1 năm 2003 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông
2002 - 2003.
4.
Một tháp chuông thuộc Chùa Pháp Vân, Xóm Thượng.
Đài
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2006
(21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (22
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Liên, pháp
tự Chân Đài Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Trầm Hương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa
Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử
thứ 420 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đài Nghiêm thuộc thế
hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Đại
Ẩn Sơn, Lộc Uyển Tự (chữ
viết)
Tên
chữ của tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.
Đại
Đồng
(điện
đường, tổ chức)
1.
Một thiền đường thuộc tu viện Bích Nham, được sử
dụng cho cả hai xóm Tùng Xanh và Hạc Trắng, có khả năng
chứa được một ngàn người. Thiền đường do thầy
Pháp Dung thiết kế và hoàn thành mùa xuân 2008.
2.
Một tổ chức vận động bảo hộ môi trường ra đời
rất sớm, vào năm 1969, do Thầy Làng Mai và một số thân
hữu thành lập với sự bảo trợ của tổ chức FOR
(Fellowship of Reconciliation - tiếng Việt là Hội Thân hữu
Hòa giải), trụ sở đặt tại Nyack, New York, Hoa Kỳ. Tổ
chức bắt đầu bằng một buổi họp tại thành phố
Menton, miền Nam nước Pháp, vào tháng 5 năm 1970 của sáu
nhà khoa học, trong đó có Conrad A. Istock (Hoa Kỳ), Donald
J. Kuenen (Hòa Lan), Pierre Lepine (Pháp), Klaus Meyer-Abich (Đức),
Cao Ngọc Phượng (tức Sư cô Chân Không - Việt Nam) và
Lawrence Slobodkin (Hoa Kỳ). Thành quả của buổi họp (kéo
dài trong bốn ngày) là một bản tuyên cáo về tình trạng
môi trường của trái đất, gọi là The
Menton Statement,
do sáu nhà khoa học kể trên ký tên. Tổ chức FOR do
Alfred Hassler lãnh đạo đã gửi bản tuyên cáo này cho các
nhà khoa học trên thế giới và sau đó tiếp thu được
chữ ký của gần 4000 nhà khoa học từ 29 quốc gia. Một
phái đoàn đại diện các nhà khoa học ấy cùng với đại
diện tổ chức Đại Đồng đã có một buổi gặp gỡ
với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc khi ấy là ngài U Thant
để đệ trình bản tuyên cáo này. Năm 1972, Liên Hợp
Quốc tổ chức một đại hội về môi trường tại thành
phố Stockholm. Cùng thời gian đó, Đại Đồng (tiếng Anh
là The Community of Men) cũng tổ chức một đại hội về
môi trường song song với đại hội của Liên Hợp Quốc
để cung cấp một diễn dàn tự do hơn. Đại hội Đại
Đồng ở Stockholm khai mạc hôm 1.6.1972 và chấm dứt hôm
6.6.1972, có 31 đại biểu của 24 quốc gia tham dự, trong
đó có những nhà khoa học nổi tiếng. Chủ tịch Đại
hội là giáo sư Hannes de Graaf của Hòa Lan. Thầy Làng Mai
đã có tên trong ban tổ chức Đại hội và đã tham dự
với tư cách đại biểu cho Việt Nam. Đại hội này đã
ra một Tuyên cáo Độc lập về Môi trường (An
Independent Declaration on the Environment)
nhằm ảnh hưởng tới đại hội của Liên Hợp Quốc
được tổ chức từ ngày 5.6.1972 đến 17.6.1972. Sau đây
là nguyên văn của bản tuyên cáo Menton và bản Tuyên cáo
Độc lập về Môi trường của Đại Hội Đại Đồng
tại Stockholm. Tuy Đại Đồng có tên tiếng Anh là The
Community of Men nhưng
các bạn trong ban tổ chức chỉ sử dụng danh từ Đại
Đồng bằng tiếng Việt bởi vì tư tưởng Đại đồng
Thế giới bắt nguồn từ tuệ giác châu Á.
Tuyên
bố Menton
- nguyên
văn bài đăng trên tạp chí Unesco Courier số tháng 7 năm
1971.
A
message to our 3.5 billion neighbours on planet earth from 2,200
environmental scientists
A
message signed by 2,200 scientists from 23 countries, addressed to
their “three and a half billion neighbours on planet earth”,
warning of the “unprecedented common danger” facing mankind, was
handed to the United Nations Secretary-General U Thant at a simple
ceremony in New York on May 11, 1971.
To the
six distinguished scientists who presented the message (reproduced in
full on these pages), the Secretary-General declared:
“I
believe that mankind is at last aware of the fact that there is a
delicate equilibrium of physical and biological phenomena on and
around the earth which cannot be thoughtlessly disturbed as we race
along the road of technological development. .. This global concern
in the face of a grave common danger, which carries the seeds of
extinction for the human species, may well prove to be the elusive
force which can bind men together. The battle for human survival can
only be won by all nations joining together in a concerted drive to
preserve life on this planet.”
Since
it was originally drafted, at a meeting at Menton, in France, the
“Menton Message”, as it has come to be known, has been circulated
among biologists and environmental scientists in Europe, North
America, Africa, Asia and South America.
The
meeting was convened by a new, voluntary, non-governmental,
transnational peace movement known as “Dai Dong”. Literally the
name means “a world of the great togetherness”, a concept which
originated in pre-Confucian China more than 2,500 years ago.
Among
the 2,200 signatories of the Menton Message are four Nobel Prize
laureates (Salvador Luria, Jacques Monod, Albert Szent-Gyorgyi and
George Wald), and such famous names from the world of science as Jean
Rostand, Sir Julian Huxley, Thor Heyerdahl, Paul Ehrlich, Margaret
Mead, Rene Dumont, Lord Ritchie-Calder, Shutaro Yamamoto, Gerardo
Budowski, Enrique Beltran and Mohamed Zaki Barakat.
“Widely
separated though we are geographically, with very different cultures,
languages, attitudes, political and religious loyalties, we are
united in our time by an unprecedented common danger. This danger, of
a nature and magnitude never before faced by man, is born of a
confluence of several phenomena. Each of them would present us with
almost unmanageable problems: together they present not only the
probability of vast increases in human suffering in the immediate
future, but the possibility of the extinction, or virtual extinction,
of human life on earth.
As
biological and other environmental scientists, we do not speak to the
feasibility of particular solutions to these problems, but out of our
conviction that the problems exists, are global and interrelated, and
that solutions can be found only if we abandon limited selfish
interests to the realization of a common need.
THE
PROBLEMS
.
Environmental Deterioration. The
quality of our environment is deteriorating at an unprecedented rate.
It is more obvious in some parts of the world than in others, and in
those areas public alarm has begun to express itself, while in other
areas environmental deterioration seems a remote and irrelevant
phenomenon.
But
there is only one environment; what happens to a part affects the
whole. The most widely recognized example of this process is the
penetration into food-chains all over the world of poisonous
substances such as mercury, lead, cadmium, DDT, and other chlorinated
organic compounds, which have been found in the tissues of birds and
other animals far removed from the origin of the poisons.
Oil
spills, industrial refuse, and effluents of various kinds have
adversely affected nearly all fresh and inshore waters around the
world, as have sewage and organic wastes released in amounts too
great to be taken care of by the normal recycling processes of
nature. Cities are overhung with heavy clouds of smog, and air-borne
pollutants have killed trees hundreds of miles from their source.
Even
more alarming are our continued reckless ventures into new
technological processes and projects (e.g. the supersonic transport
and the planned proliferation of nuclear power plants) without a
pause to consider their possible long-term effects on the
environment.
.
Depletion
of Natural Resources.
Although
Earth and its resources are finite and in part exhaustible,
industrial society is using up many of its non-renewable
resources and mismanaging potentially renewable ones, and it exploits
the resources of other countries without regard for the deprivation
of present populations or the needs of future generations.
The
Earth is already beginning to run short of some materials of critical
importance to a technological society and plans are being made to
mine minerals from beneath the oceans. But such efforts not only will
require vast expenditures of money and energy (and our
energy-producing fuels are limited), but should not be undertaken
before careful studies have been made of their probable effects on
marine animal and plant life, also part of our natural resources and
a source of high-protein food.
Almost
all of the world’s well-watered, fertile farmland is already in
use. Yet each year, especially in industrialized nations, millions of
acres of this land are taken out of cultivation for use as industrial
sites, roads, parking lots, etc. Deforestation, damming of rivers,
one-crop farming, uncontrolled use of pesticides and defoliants,
strip-mining and other short-sighted or unproductive practices have
contributed to an ecological imbalance that has already had
catastrophic effects in some areas and over a long term may adversely
affect the productivity of large sections of the world.
Even
under the best of circumstances, the Earth could not provide
resources in amounts sufficient to enable all people to live at the
level of consumption enjoyed by the majority in industrial societies,
and the contrast between lifestyles dictated by extreme poverty and
those permitted by affluence will continue to be a source of conflict
and revolution.
.
Population, Overcrowding and Hunger. The
present population of Earth is estimated at 3,500 million people, and
calculations, based on success of present population control
programmes, put it at 6, 500 million by the year 2000. There have
been some optimistic predictions that technological and natural
resources can be developed to feed, clothe and house far larger
populations than this.
The
immediate fact is, however, that as many as two-thirds of the world’s
present population are suffering from malnutrition and that the
threat of large-scale famine is still with us despite some
nutritional advances. Pollution and ecological disruption are already
affecting some food sources, and frequently efforts to raise
nutritional standards are themselves polluting.
Moreover,
population figures are misleading, since they do not take into
consideration the factor of consumption. It has been estimated that a
child born in the United States today will consume during his
lifetime at least twenty times as much as one born in India, and
contribute about fifty times as much pollution to the environment. In
terms of environmental impact, therefore, the most industrialized
countries are also the most densely populated.
Man’s
need for space and a degree of solitude, though difficult to state in
precise terms, is real and observable. We do not live by bread alone.
Even if technology could produce enough synthetic food for all,
overcrowding produced by ever-rising populations is likely to have
disastrous social and ecological
.
War.
Throughout
history there has been no human activity so universally condemned and
so universally practised as war, and research on ever more
destructive weaponry and methods of warfare has been unremitting.
Now
that we have achieved the ultimate weapon and seen its potential, we
have recoiled from its further use, but our fear has not kept us from
filling our arsenals with enough nuclear warheads to wipe out all
life on earth several times over, or from blind and heedless
experiments, both in the laboratory and in the battlefield, with
biological and chemical weapons. Nor has it kept us from engaging in
‘small’ wars or aggressive actions that may lead to nuclear war.
Even if
a final, major war is avoided, preparation for it uses up physical
and human resources that ought to be spent in an effort to find ways
of feeding and housing the world’s deprived people and of saving
and improving the environment.
It is
clear that it is insufficient to attribute war to the natural
belligerence of mankind when men have in fact succeeded in
establishing at some points stable and relatively peaceful societies
in limited geographical areas. In our time it is apparent that the
dangers of global war focus at two points:
the
inequity that exists between industrialized and non-industrialized
parts of the world, and the determination of millions of impoverished
human beings to improve their lot;
the
competition for power and economic advantage among anarchic nation
states unwilling to relinquish selfish interests in order to create a
more equable society.
Stated
thus, the problem seems almost insoluble. Yet mankind has
demonstrated improbable resources of adaptability and resiliency in
the past and perhaps facing what may well be the ultimate challenge
to its survival, it will confound our fears once again.
WHAT
CAN BE DONE?
The
preceding is only a partial listing of the problems that confront us
and makes scarcely any attempt to describe their causes. We really do
not know the full dimensions of either our problems or their
solutions. We do know that Earth and all of its inhabitants are in
trouble and that our problems will multiply if we do not attend to
them.
In the
1940s, when it was decided to develop the atomic bomb, the United
States appropriated 2,000 million dollars and brought experts from
all over the world to do the job in two years. In the 1960’s,
preoccupied with the race to the moon, the United States spent
between 20,000 and 40,000 million dollars to win the race, and both
the Soviet Union and the U.S. continue to spend thousands of millions
of dollars in space exploration.
Certainly
massive research into the problems that threaten the survival of
mankind deserves a higher priority than atomic or space research. It
should be begun at once on a similar scale and with an even greater
sense of urgency. Such research should be paid for by the industrial
nations, which are not only financially best able to carry that
burden, but themselves are the principal users of resources and the
major polluters, but it should be carried out by qualified men from
all countries and various professions, unfettered by restrictive
nationalistic policies.
Because
the crisis is so pressing, however, we urge that the following
actions be taken even while research is going on. We do not offer
these as panaceas, but as holding actions to keep our situation from
deteriorating past the point of no return:
A
moratorium on technological innovations the effects of which we
cannot foretell and which are not essential to human survival. This
would include new weapons systems, luxury transport, new and untested
pesticides, the manufacture of new plastics, the establishment of
vast new nuclear power projects, etc. It would also include
ecologically unresearched engineering projects – the damming of
great rivers, ‘reclamation’ of jungle land, underseas mining
projects, etc.
The
application of existing pollution-control technology to the
generation of energy and to industry generally, large-scale recycling
of materials in order to slow down the exhaustion of resources, and
the rapid establishment of international agreements on environmental
quality, subject to review as environmental needs become more fully
known.
Intensified
programmes in all regions of the world to curb population growth,
with full regard for the necessity of accomplishing this without
abrogation of civil rights. It is important that these programmes
should be accompanied by a decrease in the level of consumption by
privileged classes, and that a more equitable distribution of food
and other goods among all people be developed.
Regardless
of the difficulty of achieving agreements, nations must find a way to
abolish war, to defuse their nuclear armaments, and to destroy their
chemical and biological weapons. The consequences of a global war
would be immediate and irreversible, and it is therefore also the
responsibility of individuals and groups to refuse to participate in
research or processes that might, if used, result in the
extermination of the human species.
Earth,
which has seemed so large, must now be seen in its smallness. We live
in a closed system, absolutely dependent on Earth and on each other
for our lives and those of succeeding generations. The many things
that divide us are therefore of infinitely less importance than the
interdependence and danger that unite us.
We
believe that it is literally true that only by transcending our
divisions will men be able to keep Earth as their home. Solutions to
the actual problems of pollution, hunger, over-population and war may
be simpler to find than the formula for the common effort through
which the search for solutions must occur, but we must make a
beginning.”
The
Menton Scientists
CONRAD
A. ISTOCK, U.S.A.
Professor
of Biology – University of Rochester
DONALD
J. KUENEN, Netherlands
Professor
of Zoology and Former Rector
University
of Leiden
PIERRE
LEPINE, France
Chef
de Service a L’Institut Pasteur
Membre
de l’Académie des Sciences
KLAUS
MEYER-ABICH, Germany
Physicist,
Max-Planck-Institut zur Erforschung der Lebensbedingungen der
Wissenschaftlich-technischen Welt
CAO
NGOC PHUONG, Vietnam (in exile)
Professor
of Biology – University of Saigon and Hue
LAWRENCE
SLOBODKIN,
Professor
of Biology – State University of New York
at
Stoney Brook
Tuyên
cáo Độc lập về Môi trường
AN
INDEPENDENT
DECLARATION
ON THE
ENVIRONMENT
While
delegates from 114 countries debated whether they should even discuss
the draft Declaration on the Human Environment prepared for their
United Nations conference in Stockholm ( June 5-17, 1972 ), Dai
Dong’s Independent Conference on the Environment, also in Stockholm
(June 1-6) produced its own declaration. Thirty-one participants from
24 countries, most of them distinguished scientists, produced the
independent declaration, of which Stockholm Eco wrote: “This
significant declaration was produced while the UN delegates were
tediously chipping away at their interminable agenda…” It was
circulated very widely by press, radio and television, and was read
by Dai Dong’s director, Alfred Hassler, to a plenary session of the
United Nations Conference on June 9th.
Human
beings live as a part of a complex natural system with aspects of
interdependence which have only recently become dramatically evident.
They are also a part of complex social, economic and political
systems which they themselves have created, usually without an
appreciation of the unpredictable and sometimes disastrous effects of
such systems on the life-giving capabilities of nature. These
systems, moreover, contain faults and imbalances which prevent them
from responding equally to the needs of all people, but provide a
minority with a surfeit of goods, while leaving the greater part of
the world’s people in poverty and despair.
The
interaction between the social and natural systems on this planet has
in our time resulted in an environmental crisis which, although it
can be traced largely to the economic practices of the industrial
nations, affects every person on earth. The awareness of the
environmental crisis has come at a time when the deprived nations and
the poor and deprived people in all nations are struggling for power
to control their own destinies and asserting their right to full
participation in national and world affairs. The survival of humanity
demands that the condition of the natural environment and the needs
of human being be considered as interrelated parts of the same
problem. This will require profound changes in our political,
economic and social structures on the one hand and our individual
life-styles on the other, with the aim not only one of survival, but
of survival with the maximum possibility of human fulfillment. It
will also require massive programs of education to enable people to
understand the interrelatedness of the world’s problems, and the
kinds of changes that need to be made. In such endeavors, certain
guiding principles must be followed.
1.
Human survival depends upon the life activities of uncounted
thousands of species of plants, animals and micro-organisms, and upon
intricate physical and chemical reactions in the atmosphere, oceans,
fresh water, and on the land.
The
vastness and complexity of this interdependence have recently become
evident with increasing human intervention into the life-giving
processes of our planet. All life is dependent on the interactions of
matter and energy carried out in earth’s ecosystems. It is these
interactions which we are altering, even before we fully comprehend
them. The people of the world must come to understand them, to
preserve them and, when altering them, to do it with care and wisdom.
2.
There is a fundamental conflict between traditional concepts of
economic growth and the preservation of the environment.
During
the last century, uncontrolled continuous growth in the industrial
production of environmentally harmful substances and products in some
regions of the world has produced dangerous amounts of pollution and
has been responsible for an inordinate waste of resources. At the
same time, and increasing concentration of economic power and
industrial activity has led to a centralization within a few nations
of the benefits from the use of the earth’s natural resources, and
the international political influence that is derived from the
control of these resources. It has become clear that a more rational
distribution of industrial power is necessary if the global problems
of environment and society are to be solved. Such a redistribution
would achieve at the same time a more equal apportionment of economic
and political benefits among nations and individuals.
3.
The exploitation of Third World national and regional resources by
foreign corporations, with a consequent outflow of profits from the
exploited regions, has resulted in a vast and growing economic
disparity among nations and a monopoly of industrialized countries
over production, energy, technology, information and political power.
Complementary
to this is the flooding of developing countries with surplus goods
and capital, with a resultant distortion of their economies, and the
deformation of their environments into monocultures in the interest
of further enriching the industrial states. The foreign investments,
economic development and technological practices of such industrial
states must be curbed and altered by the basic claim of a region’s
people to control of its resources. Use of these resources, however,
should not be dictated by the accidents of geography, but must be
allocated in such ways as to serve the needs of the world’s people
in this and future generations. The authority of any region’s
people over resources and environment must include the obligation to
recognize that the environment is an indivisible whole, not subject
to political barriers. The environment must be protected from
avoidable pollution, destruction and exploitation from all sources.
4.
It is obvious that human population growth cannot continue
indefinitely in a finite environment with finite resources. At the
same time, population is one of a number of factors, no one of which
in the long run is the most important or the most decisive in
affecting the human environment.
In
fact, the question of population is intrinsically inseparable from
the question of access to resources. A true improvement in the living
conditions of the people of developing countries would go further in
stabilizing population growth than programs of population control.
Population is not a single problem, but one which has a complex
interrelationship with the social, economic and natural environments
of human beings. Population size may be too small or too large at any
particular time depending on the availability of natural resources
and the stresses on the environment. The ecological principle
regarding the role of population is equally applicable to human and
animal populations. However, in human populations social organization
is such as to change or modify this principle.
On a
global scale, the population problems of the developing countries
have coincided with the colonial expansions of the last two
centuries, and the exclusion of Third World populations from full
access to their own resources. This process of economic exploitation
still continues in spite of the nominal independence of various
former colonies and dependencies. Meanwhile the alliance between
economic elites in the developing countries and industrial interests
in the metropolitan countries makes it impossible for the people of
the Third World to use their resources to fulfill their own needs.
The redistribution of resource us on a global level is an
unconditional prerequisite for correcting this historic process.
As long
as resources are wasted, as they manifestly are, it is deceptive to
describe population growth as if this were the source of all evils.
There is obviously a confusion in many people’s minds between
overcrowding and population, but the fact that some urban areas grow
like cancers should not serve as a pretext to divert attention from
the real task of our generation, which is to achieve proper
management of resources and space. Those nations that are mainly
responsible for this state of affairs have certainly no right to
recommend population-stabilizing policies to the world’s hungry
people.
It
should be noted that, for economically developed countries, the
combination of an increase in industrial consumption per capita with
a stable population, or of stable consumption per capita with a
growing population, will both lead to further resource depletion and
pollution. This need not be true if the appropriate socio-economic
changes that will lead to an ecologically sound production and
consumption pattern are made.
5.
Economic development of any kind will require technology.
Much
conventional technology and many of its proliferating products have
proved ecologically harmful. We cannot reject technology per se but
we must restructure and reorient it. Ecologically sound technologies
will minimize stresses to the environment. A rapid development of the
new approach should be complemented by a technology review and
surveillance system to assure that any new technology is ecologically
compatible and will be used for human survival and fulfillment. It is
not enough to add anti-pollution devices to existing technologies,
although this might well be the initial stage of phasing out present
polluting technologies.
6.
The culture of the industrial nations reflects their political and
economic ideology, and is based on an ever-increasing accumulation of
material goods and an uncritical reliance on technology to solve
humanity’s problems.
This
ideology, in which the ethical element is a forgotten dimension, is
spreading throughout the world; its acceptance will not only cause
individual and national disappointment and frustration, but will make
rational economic and environmental policies impossible to carry out.
An increase in economic well-being will help deprived countries
preserve their own cultural and spiritual heritages, but many people
in industrial countries, faced with a reduction in their material
possessions, will need to find new definitions of progress in values
compatible with environmental and social well-being.
7.
Among the most critical problems that constitute and existing and
accelerating threat to human survival is war.
Even
apart from the colossal cost in human suffering that all forms of war
entail, arms expenditures place an overwhelming economic burden on
rich and poor nations alike, and an equally heavy burden on the
environment. Military technology, being such a large part of
industrial activity, particularly in economically developed
countries, is a major cause of global pollution and resource
depletion. Thus, war and preparation for war are both directly
related to environmental problems. With nuclear proliferation, both
civil and military, the environmental hazard has become increasingly
critical, arms control more difficult, and nuclear war more probable.
The enormous sums consumed in military expenditures must be applied
directly to the task of global redistribution and environmental
improvement. As long as we tolerate the waste and the destructiveness
of war itself, we cannot achieve the stable environment on which the
survival of all of us depends.
Yet the
determination to abolish war must be accompanied by a recognition of
the right of peoples to struggle, and the certainty that they will
struggle, to liberate themselves from national and international
systems that oppress them. Those who most earnestly seek an end to
war must affirm their solidarity with their fellow humans engaged in
such a struggle, while simultaneously insisting on the need to
develop effective nonviolent methods of solving the social and
international conflicts of a world in danger of an annihilating war.
* *
PARTICIPANTS
IN THE
CONFERENCE
AND
SIGNERS
OF THE
DECLARATION
SAMIR
AMIN, Senegal
Director,
Institut Africain de Développement Economique et de Planification,
Dakar
MOHAMED
ZAKI BARAKAT, U.A.R.
Faculty
of Medicine, Azhar
University,
Cairo
HEINRICH
CARSTENS,
Germany
Chairman,
Friends World
Committee
for Consultation
*DONALD
ALFRED CHANT, Canada
Chairman,
Department of
Zoology,
University of Toronto
MOHAMMED
AHSEN CHAUDHRI, Pakistan
Head,
Department of International Relations, University of Karachi
DORA
OBI CHIZBA, Nigeria
President,
African Environmental Association
JERZY
CHODAN, Poland
Head
Department, Agricultural College, Olsztyn
*PURUSHOTTAM
JAIKRISHNA
DEORAS, India
Professor,
Haffkine Institute, Bombay
PETER
DOHRN, Italy
Secretary,
Mediterranean Association Marine
Biology-Oceanology
YUSUF
ALI BRAJ, Kenya
Former
President, Family
Planning
Association
*M.
TAGHI FARVAR, Iran
Center
for the Biology of Natural Systems, Washington University, St. Louis
ANDRE
FAUSSURIER, France
Director,
Centre de Reflexion et D’Etudes Scientifiques sure l’Environnement,
Lyon
GONZALO
FERNOS, Puerto Rico
Chairman,
Environmental
Quality
Commission, College of Architects and Surveyors
*NICHOLA
GEORGECU-ROEGEN,
USA
istinguished
Professor of Economics, Vanderbilt University
THICH
NHAT HANH, Vietnam (in exile)
Buddhist
monk, poet, educator
*BENGT
HUBENDICK,
Sweden
Director,
Naturhistoriska
Museet,
Goteberg
*JAIME
HURTUBIA, Chile
Professor,
Institute de Ecologia, Universidad Austral de Chile
CONRAD
ALAN ISTOCK, USA
Professor,
Department of
Biology,
University of Rochester
*FRED
HAROLD KNEIMAN, Canada
Professor,
Humanities of Science Dept., Sir George Williams University, Montreal
SATISH
KUMAR, India
Writer.
Founder of the London School of Non-Violence
*JURGEN
SCHUTT MOGRO, Bolivia (in exile)
Former
Professor, University of La Paz
JEAN
MUSSARD, Switzerland
Former
Director, UN
Conference
on the Human Environment
CAO
NGOC PHUONG,
Vietnam
(in exile)
Professor
of Biology,
Universities
of Saigon and Hue
*JUGENNE
H. PRIMAVERA, Philippines
Professor
of Biology, Mindanao State University
*HENRY
A. REGIER, Canada
Professor
of Zoology,
University
of Toronto
HENRYK
SANDNER, Poland
Professor
of Biology, Polish Academy of Sciences
RUDI
SUPEK, Yugoslavia
Professor
of Biology, University of Zagreb
JUN
UI, Japan
Lecturer,
Department of Urban Engineering, Faculty of
Engineering,
Tokyo
ROEL
VAN DUYN, Holland
Author.
Leader of Kabouter Party
ARTHUR
H. WESTING, USA
Professor
of Botany, Windham College, Vermont
ERNST
F. WINTER, Austria
Director
of Transnational Research Center, Katzelsdorf
Signed
June 6, 1972
Chairman
of Conference:
HANNES
DE GRAAF, Utrecht, Holland
Director
of Dai Dong:
ALFRED
HASSLER, Nyack, New York
Deputy
Director of Dai Dong for Europe:
JENS
BRODUM, Copenhagen, Denmark
* Some
participants have included with their support of the Declaration as a
whole some specific qualifications which they have at certain points:
POINT
IV. M.Taghi Farvar, Jurgen Schutt Mogro, Jurgenne
Primavera, and Jaime Hurtubia have signed the Declaration subject to
the following rewording of the first sentence of Point IV:
Population
is not the most important or the most decisive factor affecting the
human environment, although it is apparent that human population
growth cannot continue indefinitely in a finite environment with
finite resources.
POINT
IV. Nicholas Georgescu-Roegen, P.J. Deoras, Bengt Hubendick,
Donald A. Chant, Henry Regier, and Fred Knelman have signed the
Declaration subject to the following footnote:
In
several parts of this document, the environmental issues have become
largely submerged in statements more relevant in one of a number or
ideological polarities. A current controversy, concerning the
quantitative measure of significance to be attached at this point in
time to the various aspects of ‘population factor’ in comparison
to other important factors, has confused the issue. The differences
provoking the scientific controversy in themselves do not concern
directly the point we make here: In various places and at various
times the ‘population issue’ has become or will become critical,
being preceded or followed in time by other critical factors not
closely related to the population factor.
POINT
VII. Nicholas Georgescu-Roegen, Donald A. Chant, and Henry Regier
have signed subject to the following rewording of the final paragraph
of Point VII:
Those
who most earnestly seek an end to war call upon the nations who are
oppressing or may in the future oppress militarily, economically, or
politically other nations or sectors of their own populations to
desist from such actions. They also call upon those who are now or
will in the future be the object of oppression to refrain from
violence and to act so as to expose the aggressor and deny him the
possibility of invoking the pretext of self-defense and, thus, of
continuing or triggering new wars.
Đại
Hòa
(cơ
sở, điện đường)
1.
Khu nhà chính thuộc tu viện Bích Nham, là nơi sinh hoạt
chung cho cả hai xóm Tùng Xanh và Hạc Trắng.
2.
Tên một thiền đường dành cho các sư cô tại xóm
HạcTrắng.
Đại
lễ Phật Đản
(lễ
lược) Tên
đầy đủ là Đại lễ Phật đản Quốc tế Liên Hợp
Quốc 2008 (tiếng Anh là The
International Day of Vesak Celebration 2008),
diễn ra tại Hà Nội từ ngày 13 đến 17 tháng 5 năm 2008.
Sư Ông Làng Mai được mời chia sẻ một trong ba bài phát
biểu chính của Đại lễ. Phái đoàn Làng Mai ngoài 100 vị
xuất sĩ còn có trên 400 vị cư sĩ tới từ Tây phương
đã làm cho đại lễ trở thành một đại hội quốc tế
thực sự. Các thành viên của phái đoàn Làng Mai tích cực
tham dự, yểm trợ ban tổ chức trong việc chuẩn bị tài
liệu, nhất là tài liệu bằng tiếng Anh, trả lời điện
thư cho các đoàn đại biểu, sắp đặt chọn người
hướng dẫn các buổi hội thảo trong Đại hội, chuẩn
bị đầy đủ đầy đủ tài liệu thuyết trình cho cả 7
nhóm hội thảo có chủ đề khác nhau và giúp chia nhiều
cụm thiền sinh đi vào từng nhóm hội thảo để đưa đạo
Bụt đi vào các vấn đề thiết thực của sự tu học và
hoằng pháp. Khoá tu cho người trẻ tại tu viện Bát Nhã
và Chùa Bằng A – Hà Nội, khoá tu Đạo Phật dấn thân
của thế kỷ 21 tại khách sạn Kim Liên – Hà Nội do
tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn là những hoạt động nằm
trong khuôn khổ của Đại lễ Phật đản này.
Đại
trai đàn bình đẳng giải oan (lễ
lược)
xem Phổ
cáo Quốc dân.
Đại
trượng phu
(bài
hát)
Một bài hát do Thầy Làng Mai viết lời và phổ nhạc.
Cửa
tùng đôi cánh khép. Một mũi tên sáng loáng lìa dây cung.
Lao vút tới. Mặt trời nổ tung. Đầy sân hoa cam rụng.
Phảng phất bóng vô cùng.
Đam
mê
(thuật
ngữ)
Sự tham đắm, thèm khát và vướng mắc vào một trong
những đối tượng của sáu giác quan.
Đám
mây trong tờ giấy
(thuật
ngữ)
Đây là một trong những hình ảnh mà Thầy Làng Mai hay sử
dụng để nói về tự tính duyên khởi, tương tức và
tương nhập của sự vật trong thế giới hiện tượng.
Nhìn vào tờ giấy, ta thấy được đám mây, bởi vì nếu
không có đám mây thì sẽ không có mưa, mà không có mưa
thì cây rừng sẽ không mọc được, và sẽ không có bột
gỗ để làm giấy. Thiền tập là nhìn sâu để thấy
được sự có mặt của vạn pháp trong một pháp: tờ
giấy là tờ giấy, nhưng tờ giấy cũng chứa đựng đám
mây, cũng là đám mây. Nếu lấy đám mây ra khỏi tờ
giấy thì tờ giấy không còn. Nhìn vào tờ giấy ta còn
thấy nhiều yếu tố khác nữa như ánh sáng mặt trời,
đất rừng, v.v… Nếu không có đất, nếu không có ánh
sáng mặt trời thì cây cũng không mọc và không lớn lên
được, và sẽ không có cây để làm giấy. Thời gian,
không gian, tốc độ vận chuyển, tàng thức, v.v... tất
cả đều có mặt trong tờ giấy.
Đàm
Nguyện
(tên
gọi)
Sư thầy Đàm Nguyện. Một vị giáo thọ xuất gia nữ tu
học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam. Nhận truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng với bài kệ truyền đăng như
sau: Đàm hoa
thường nhuận sắc. Nguyện hải cánh do thâm. Giác tâm
hương diệu khiết. Vạn đại khả truyền đăng.
Ni sư Đàm Nguyện thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế
và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đảm
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2008
(17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 (17
tuổi) tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Liên Hỉ, pháp tự
Chân Đảm Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen
Trắng. Là đệ tử thứ 582 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô
Đảm Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và
thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đạm
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 2007
(21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 17 tháng 2 năm 2008 (22
tuổi) tại tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Quảng Pha, pháp
tự Chân Đạm Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Lê. Là đệ tử thứ 493 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đạm
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đan
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1980, tập sự xuất gia năm 2005
(25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 1 năm 2006 (26
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Diệu Hòa, pháp
tự Chân Đan Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hồng Giòn. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu viện
Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ giới
lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại
giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 327 của Sư Ông
Làng Mai. Sư cô Đan Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của
tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đán
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2005
(14 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 (15
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Quảng Bích,
pháp tự Chân Đán Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Hải Đường. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại
chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ
tử thứ 384 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đán Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Đàn
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt
nam, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm
2001 (15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 2 năm 2002
(16 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm
Diệu Ân, pháp tự Chân Đàn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình
xuất gia Cây Thốt Nốt. Thọ giới thức xoa ma na năm 2004
trong đại giới đàn Lâm Tế. Thọ giới lớn ngày 18
tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp. Nhận
truyền đăng năm 2009 trong đại giới đàn Mùa Sen Mới
với bài kệ truyền đăng:
Hương
xông pháp giới chiên Đàn.
Uy Nghiêm thần lực, hào quang
rạng ngời.
Đóa sen phô cánh hồng tươi.
Nẻo về đã
rạng chân trời thênh thang.
Là đệ tử thứ 147 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đàn
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Là một trong những đệ
tử trẻ tuổi của Sư Ông Làng Mai được Sư Ông Làng
Mai đặt danh hiệu Baby
Nun.
Đáo
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2005
(20 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 1 năm 2006 (21
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nguyên Quang,
pháp tự Chân Đáo Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Hồng Giòn. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu
viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu
trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 328
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đáo Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Đào
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Pháp, quốc
tịch Pháp, sinh năm 1953, tập sự xuất gia năm 2003 (50
tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 26 tháng 10 năm 2003 (50 tuổi)
tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Transformation
Liberatrice du Coeur, pháp tự Chân Đào Nghiêm. Sư cô thuộc
gia đình xuất gia Cây Cẩm Lai. Thọ giới Thức Xoa Ma Na
năm 2005 trong đại giới đàn Cổ Pháp. Thọ giới lớn
ngày 18 tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn Văn Lang. Nhận truyền đăng năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ truyền đăng:
Hoa
đào mỗi độ nở
Nghiêm
tịnh bồ đề tâm
Đất
trời cùng vận chuyển
Đem
lại một mùa xuân.
Là
đệ tử thứ 192 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đào Nghiêm
thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ
9 của phái Liễu Quán.
Đạo
Bụt Bắc Truyền
(thuật
ngữ)
Danh từ để gọi Đạo Bụt Đại Thừa ở các nước
miền Bắc, khác với Đạo Bụt Nam Truyền là Đạo Bụt
nguyên thỉ (Tiểu Thừa) được thấy ở các nước miền
Nam. Thật ra ở các nước theo Phật giáo đại thừa cũng
có kinh điển về giáo lý nguyên thỉ, và Đạo Bụt Nam
Truyền cũng có ảnh hưởng của Đạo Bụt Đại Thừa.
Lịch sử Phật giáo có thể chia làm ba thời kỳ: Đạo
Bụt Nguyên Thỉ, Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại
Thừa. Đạo Bụt Bắc Truyền cũng như Đạo Bụt Nam
Truyền đều phát xuất từ Đạo Bụt Nguyên Thỉ và Đạo
Bụt Bộ Phái. Về Đạo Bụt Bộ Phái ta có thể tham khảo
sách Dị Bộ Tông Luân Luận, và bộ băng Thầy Làng Mai
dạy về lịch sử Phật Giáo.
Đạo
Bụt Nam Truyền
(thuật
ngữ)
Xem Đạo
Bụt Bắc Truyền.
Đạo
Bụt nhập thế
(thuật
ngữ)
Đạo Bụt thực tập không phải chỉ trong chùa viện mà
còn trong mọi lĩnh vực của sự sống: giáo dục, xã hội,
chính trị, văn hóa, kinh tế… còn được gọi là đạo
Bụt dấn thân (engaged
Buddhism)
hay đạo Bụt đi vào cuộc đời (socially
engaged Buddhism).
Danh từ Đạo
Phật đi vào cuộc đời
đã được dùng làm tựa đề một cuốn sách của Thầy
Làng Mai do Lá Bối xuất bản ở Sài Gòn năm 1964. Sau đó
các tổ chức Phật giáo như Buddhist
Peace Fellowship
ở Hoa Kỳ cũng bắt đầu sử dụng và áp dụng tinh thần
này. Từ những năm 1930, các học giả như Nguyễn Trọng
Thuật, Đồ Nan Tử trên tập san Phật Giáo Đuốc Tuệ đã
bắt đầu xướng xuất Nhân Gian Phật Giáo. Đạo Bụt ở
Việt Nam từ thời Lý Trần đã có khuynh hướng nhập
thế, vua Trần Nhân Tông tức Trúc Lâm Đại Sĩ cũng đã
hành động trong tinh thần ấy. Trong thời kỳ chiến tranh
ở Việt Nam (1954-1975) giáo lý và sự thực tập theo tinh
thần đạo Bụt nhập thế được cụ thể hóa bằng
phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội và những hoạt
động tranh đấu cho hòa bình và hòa giải dân tộc. Tạp
chí National Geographic số tháng 12 năm 2005 đã đăng một
bài của ký giả Perry Garfinkel nói về phong trào Đạo
Phật Nhập Thế trên thế giới. Ông viết: “Ngày
nay một Đạo Phật mới đang hình thành và lan rộng trên
thế giới. Giáo lý của Đạo Phật này gây cảm hứng
cho nhiều phương pháp trị liệu thân tâm và mở đường
cho những chính sách cải cách chính trị và bảo vệ sinh
môi. Các nhà thể thao biết sử dụng các phép tu để
thành công hơn trong các cuộc thi đấu, các nhân viên cảnh
sát sử dụng để vượt thắng những hoàn cảnh chống
đối khó khăn, các bệnh nhân bị bệnh nan y sử dụng để
có thể chịu đựng được dễ dàng hơn tình trạng bức
xúc của các cơn đau nhức…”.
Đạo tràng Mai Thôn, các tu viện và các tăng thân liên hệ
trong hai mươi lăm năm nay đã tổ chức nhiều khóa tu cho
giới tâm lý trị liệu, cho giáo chức, cho giới cảnh sát
và an ninh, cho các nhà tranh đấu bảo vệ sinh môi, cho
giới cựu chiến binh, cho giới làm phim ảnh, cho giới văn
nghệ sĩ, cho giới sinh viên học sinh, cho thiếu nhi và cho
giới doanh thương, v.v… Trong bài pháp thoại gần đây
nhất nói bằng tiếng Anh tại Xóm Hạ, vào ngày thứ năm
20 tháng 4 năm 2008, Thầy Làng Mai vẫn tiếp tục truyền
đi nguồn cảm hứng về tinh thần nhập
thế
của Đạo Bụt hiện đại cho tứ chúng Làng Mai trong đó
có rất nhiều quí thầy quí sư cô trẻ và các bạn thiền
sinh Tây Phương. Toàn văn bài pháp thoại được đăng tải
trên trang nhà Làng Mai www.langmai.org.Đạo
đức học qui định
(thuật
ngữ)
(dịch chữ prescriptive
ethics)
Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư
kiết Đông 2008-2009.
Đạo
đức học thuyết minh (thuật
ngữ)
(dịch chữ descriptive
ethics)
Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư
kiết Đông 2008-2009.
Đạo
đức học tiêu chuẩn
(thuật
ngữ) (dịch
chữ normative
ethics)
Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư
kiết Đông 2008-2009.
Đạo
đức học ứng dụng
(thuật
ngữ) (dịch
chữ applied
ethics)
Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư
kiết Đông 2008-2009.
Đạo
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Pháp. Thọ
giới Sa Di Ni ngày 4 tháng 12 năm 1999 tại chùa Từ Nghiêm
– Làng Mai, pháp danh Tâm An Lương, pháp tự Chân Đạo
Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Anh Đào. Là đệ
tử thứ 92 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đạo Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Đạo
Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hàng Ngày (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai viết chung với thầy
Huyền Quang do Viện Hóa Đạo Sài Gòn xuất bản lần đầu
năm 1973, được nhà xuất bản Lá Bối tái bản nhiều
lần ở trong nước cũng như ở ngoài nước.
Đạo
Phật dấn thân của thế kỷ 21
(thuật
ngữ)
Chủ đề của một khoá tu tổ chức tại khách sạn Kim
Liên – Hà Nội từ ngày 5 đến 11 tháng 5 năm 2008 cho
người nước ngoài, nhất là thiền sinh Âu Mỹ trước
ngày khai mạc Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc tại
Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội. Tiếng
Anh là Engaged
Buddhism in the 21st Century.
Đạo
Phật Đi Vào Cuộc Đời
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối ấn hành
lần đầu năm 1964 tại Sài Gòn và đã được tái bản
nhiều lần ở trong nước và ngoài nước. Đây là một
trong những cuốn sách đã đưa tới phong trào đạo Bụt
dấn thân (Engaged
Buddhism)
ở Việt Nam và trên thế giới, trong đó có Đạo Phật
Ngày Nay, Đạo Phật Hiện Đại Hóa, Đạo Phật Ngày Mai,
v.v…
Đạo
Phật Hiện Đại Hóa (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối, Sài Gòn
xuất bản năm 1965.
Đạo
Phật Ngày Mai (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, ký bút hiệu Bsu Danglu
(tên của một làng người Thượng ở B’lao, nơi tọa
lạc Phương Bối Am) do nhà Lá Bối, Sài Gòn ấn hành năm
1970 (thời gian này, sách ký tên Nhất Hạnh không được
phép xuất bản).
Đạo
Phật Ngày Nay
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối ấn hành lần đầu năm 1964 tại Paris và đã được
tái bản nhiều lần ở trong nước và ngoài nước. Bản
dịch tiếng Pháp tựa đề Aujourd’hui
le Bouddhisme.
Sách đã được Mục Sư Thomas Merton điểm và giới thiệu.
Đạo
Phật Qua Nhận Thức Mới (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, ký bút hiệu Thạc
Đức, do Hội Phật Học Nam Việt xuất bản năm 1957, họa
sĩ Lữ Hồ trình bày bìa, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền
viết lời giới thiệu. Sách này tập hợp lại những bài
viết của Thầy Làng Mai đã đăng trên các số báo ra năm
1955 của nhật báo Dân Chủ do ông Vũ Ngọc Các làm chủ
nhiệm. Loạt bài được đăng ngay trang đầu các số báo
với tựa bài lớn in mực đỏ và báo bán rất chạy vì
đất nước vừa bị chia cắt và lòng người rất hoang
mang muốn đi tìm một hướng đi tinh thần cho cả nước
khi các ý thức hệ bên ngoài bắt đầu tranh chấp tại
Việt Nam.
Đạo
Phật Và Hướng Đi Nhân Bản Đích Thực
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối, Sài Gòn
ấn hành năm 1966. Sách này tập hợp một số bài viết
của Thầy Làng Mai trong tạp chí Hải Triều Âm,- cơ quan
văn hóa và thông tin Của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.
Đoàn
thanh niên Phật tử (và Không Phật tử) phục vụ cho một
xã hội lành mạnh và từ bi (tổ
chức)
Xem Wake
Up!
Đạt
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Đức. Thọ giới Sa Di Ni ngày 18 tháng 05 năm 2000 tại
chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp tự Chân Đạt Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Bông Sứ. Là đệ tử thứ
113 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đạt Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Đắc
Nghiêm
(tên
gọi) Một
vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Mỹ, sinh năm 1949, tập sự xuất gia năm 2003 (54
tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 13 tháng 12 năm 2003 (54 tuổi)
tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Cao, pháp tự
Chân Đắc Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Quế.
Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2006 trong đại giới đàn Cổ
Pháp. Thọ giới lớn ngày 18 tháng 12 năm 2006 trong đại
giới đàn Văn Lang. Nhận truyền đăng năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ truyền đăng:
Đóa
hoa chứng đắc nở trang nghiêm
Nguyện
ước xưa nay vốn vững bền
Gió
mát trăng trong còn có đó
An
lành mỗi bước dựng Tây thiên.
Là đệ tử thứ 196 của Sư Ông Làng
Mai. Sư cô Đắc Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Sư cô là
mẹ của thầy Pháp Uyển.Sư cô Đăng Nghiêm |
Đẳng Nghiêm |
Công
phu nương sức đẳng trì.
Giới thân nghiêm túc uy nghi
vững vàng.
Đạo mầu nhiếp phục tâm an.
Hạt từ gieo
khắp nhân gian độ đời.
Là đệ tử thứ 105 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đẳng
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đây
là tịnh độ
(thuật
ngữ, bài hát)
1. Tịnh độ bây giờ và ở đây. Đây là giáo lý và thực tập của Làng Mai liên hệ đến Tịnh độ. Căn cứ trên giáo nghĩa Duy Tâm Tịnh Độ (Tịnh độ trong lòng), các vị tổ sư ngày xưa, trong đó có vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy rằng: đối với hạng có căn trí cao thì Bụt A Di Đà là tự tính của mỗi người, và cõi tịnh độ có sẵn trong tâm của mỗi người, do đó nếu có niệm, định và tuệ thì ta có thể thấy được tịnh độ hiện tiền, và mỗi bước chân ta đi đều dẫm lên tịnh độ (mỗi bước chân đi vào tịnh độ, mỗi cái nhìn thấy được pháp thân – Nhật Tụng Thiền Môn 2000). Nhận thức này đi đôi tuyệt hảo với giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú và với phép tu chánh niệm ở Làng Mai.
2. Tên một bài hát, lời của Thầy Làng Mai, sư cô Chân Không phổ nhạc: Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây. Mỉm cười chánh niệm, an trú hôm nay. Bụt là lá chín, pháp là mây bay, tăng thân khắp chốn, quê hương nơi này. Thở vào hoa nở, thở ra trúc lay. Tâm không ràng buộc, tiêu dao tháng ngày.
1. Tịnh độ bây giờ và ở đây. Đây là giáo lý và thực tập của Làng Mai liên hệ đến Tịnh độ. Căn cứ trên giáo nghĩa Duy Tâm Tịnh Độ (Tịnh độ trong lòng), các vị tổ sư ngày xưa, trong đó có vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy rằng: đối với hạng có căn trí cao thì Bụt A Di Đà là tự tính của mỗi người, và cõi tịnh độ có sẵn trong tâm của mỗi người, do đó nếu có niệm, định và tuệ thì ta có thể thấy được tịnh độ hiện tiền, và mỗi bước chân ta đi đều dẫm lên tịnh độ (mỗi bước chân đi vào tịnh độ, mỗi cái nhìn thấy được pháp thân – Nhật Tụng Thiền Môn 2000). Nhận thức này đi đôi tuyệt hảo với giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú và với phép tu chánh niệm ở Làng Mai.
2. Tên một bài hát, lời của Thầy Làng Mai, sư cô Chân Không phổ nhạc: Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây. Mỉm cười chánh niệm, an trú hôm nay. Bụt là lá chín, pháp là mây bay, tăng thân khắp chốn, quê hương nơi này. Thở vào hoa nở, thở ra trúc lay. Tâm không ràng buộc, tiêu dao tháng ngày.
Đầu
cành dương liễu
(nhạc
kinh)
Một bài nhạc kinh do sư cô Chân Quy Nghiêm phổ nhạc.
Bài này có trong sách Thiền Môn Nhật Tụng Năm 2000. Đầu
cành dương liễu vương cam lộ. Một giọt mười phương
rưới cũng đầy. Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết. Đàn
tràng thanh tịnh ở ngay đây. Nam mô Bồ Tát Thanh Lương
Địa. Trí tuệ bừng lên đóa biện tài. Đứng yên trên
sóng sạch trần ai. Cam Lộ chữa lành cơn khổ bệnh. Hào
quang quét sạch buổi nguy tai. Liễu biếc phất bày muôn
thế giới. Sen hồng nở hé vạn lâu đài. Cúi đầu ca
ngợi dâng hương thỉnh. Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm.
Đầu
Thôn
(cơ
sở)
Một cư xá thuộc Xóm Mới.
Đế Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1990, tập sự xuất gia năm 2008 (18 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 (18 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Diệu Chuyên, pháp tự Chân Đế Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ 579 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đế Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đế
thính
(thuật
ngữ)
Xem lắng
nghe và
truyền thông.
Để
Bụt Thở
(thi
kệ)
Một bài thi kệ được Sư Ông Làng Mai sáng tác mùa xuân
2007, sử dụng trong khi thực tập đi thiền:
1. Để Bụt thở, để Bụt đi, mình khỏi thở, mình khỏi đi.
2. Bụt đang thở, Bụt đang đi, mình được thở, mình được đi.
3. Bụt là thở, Bụt là đi, mình là thở, mình là đi.
4. Chỉ có thở, chỉ có đi, không người thở, không người đi.
5. An khi thở, lạc khi đi, an là thở, lạc là đi.
Bài thực tập đi từ cái nhìn gần như nhị nguyên tới cái nhìn bất nhị. Ban đầu Bụt không phải là mình, kế đó Bụt là một phần của mình, kế đó nữa Bụt là mình bởi vì Bụt và mình cả hai đều vô ngã, và cuối cùng Bụt và mình đều là hơi thở và bước chân có tính cách an và lạc.
1. Để Bụt thở, để Bụt đi, mình khỏi thở, mình khỏi đi.
2. Bụt đang thở, Bụt đang đi, mình được thở, mình được đi.
3. Bụt là thở, Bụt là đi, mình là thở, mình là đi.
4. Chỉ có thở, chỉ có đi, không người thở, không người đi.
5. An khi thở, lạc khi đi, an là thở, lạc là đi.
Bài thực tập đi từ cái nhìn gần như nhị nguyên tới cái nhìn bất nhị. Ban đầu Bụt không phải là mình, kế đó Bụt là một phần của mình, kế đó nữa Bụt là mình bởi vì Bụt và mình cả hai đều vô ngã, và cuối cùng Bụt và mình đều là hơi thở và bước chân có tính cách an và lạc.
Để
Có Một Tương Lai
(sách)
Một
cuốn sách giảng về Năm giới của Thầy Làng Mai, nhà
xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành. Nhà xuất bản Văn
Hóa Sài Gòn ấn hành năm 2006.
Để
Hiểu Đạo Phật
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, ký bút hiệu Phương
Bối, do Phật Học Đường Trung Phần xuất bản năm 1959,
họa sĩ Tạ Tỵ trình bày bìa.
Để
Nuôi Lớn Hạnh Phúc Trong Thời Gian Ở Làng Mai
(Cẩm
nang tu học)
Một tập sách chỉ dẫn thiền sinh cách thực tập ở
Làng Mai để thời gian cư trú tại Làng Mai đem tới được
nhiều hạnh phúc, trị liệu và chuyển hóa. Tập sách này
được ấn hành năm 1999, trong đó gồm có các mục: Thực
Tập Chánh Niệm, Sử Dụng Thi Kệ, Thiền Đi, Thức Dậy
Buổi Sáng, Im Lặng Hùng Tráng, Làm Mới, Thân Thứ Hai,
Thiền Buông Thư, Động Tác Chánh Niệm, Soi Sáng Cho Nhau,
Điều Phục Cơn Giận hay Nỗi Buồn, Nghe Pháp Thoại, Pháp
Đàm, Thiền Trà, Thiền Lạy, Hải Đảo Tự Thân, Ngày
Làm Biếng, Thiền Ôm, và Đem Làng Mai Về Nhà. Tập sách
được các vị giáo thọ của Làng Mai biên soạn. Phần
đầu nói về Đạo Tràng Mai Thôn như sau: “Làng
Mai là một trung tâm thiền tập tọa lạc tại miền Tây
Nam nước Pháp được hình thành vào đầu năm 1982. Những
năm đầu, nhiều cây hồng ăn trái (persimon) đã được
trồng ở đây cho nên trung tâm được gọi là Làng Hồng.
Nhưng sau đó, 1250 cây mai thuộc loại Pruniers d’Agen, rất
ngọt và đậm đà, đã được trồng bằng tiền túi của
các thiếu nhi gốc Việt Nam về tu học, cho nên Làng Hồng
đã đổi tên thành Làng Mai, tiếng Pháp là Village des
pruniers, tiếng Anh là Plum Trees Village, gọi tắt là Plum
Village. Tên chữ của Làng Mai là Đạo Tràng Mai Thôn. Mấy
năm đầu thì Làng Mai chỉ có hai xóm: Xóm Thượng và Xóm
Hạ. Nhưng vì nhu yếu càng ngày càng lớn của thiền sinh
nên đến nay đã có năm Xóm là Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm
Mới, Xóm Trung, Xóm Đoài. Xóm Thượng đã trở thành
chùa Pháp Vân, tên chữ là Thệ Nhật Sơn Pháp Vân Tự,
Xóm Hạ trở thành chùa Cam Lộ, tên chữ là Mai Hoa Thôn
Cam Lộ Tự. Xóm Mới trở thành chùa Từ Nghiêm, tên chữ
là Thiên Ý Thôn Từ Nghiêm Tự. Hiện giờ Xóm Mới đã
có thêm Xóm Mới Đầu Thôn và Xóm Mới Lưng Đồi để
đủ cung ứng nơi cư trú cho thiền sinh tới thực tập
càng lúc càng đông. Ngoài ra, Xóm Mới cũng có thêm một
ngọn đồi và một con suối gọi là đồi Dương Xuân và
suối Dương Xuân, một niềm vui lớn cho các vị thường
trú. Chùa Pháp Vân là thiền viện cho các vị xuất gia
nam, chùa Từ Nghiêm và chùa Cam Lộ là thiền viện của
các vị xuất gia nữ. Trong số các thầy và các sư cô,
có nhiều vị gốc Anh, gốc Pháp, gốc Hòa Lan, gốc Mỹ,
gốc Ái Nhĩ Lan và Úc. Làng Mai cũng là trú xứ của Viện
Cao Đẳng Phật Học, nơi đào tạo các vị giáo thọ xuất
gia và tại gia. Số lượng các vị giáo thọ được đào
tạo đã lên tới hơn hai trăm người, hiện đang có mặt
giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu trên thế giới, kể
cả ở Việt Nam. Tại Đạo Tràng Mai Thôn, ngoài chúng
xuất gia, cũng có chúng tại gia thường trú, tu học rất
tinh chuyên. Tại Làng Mai có chương trình đào tạo các vị
giáo thọ xuất gia và tại gia. Số lượng các vị xuất
gia tại Làng Mai và tu viện Rừng Phong đã lên tới ba
trăm vị. Có những khóa tu được tổ chức hàng năm:
khóa mùa Đông (An Cư Kiết Đông) kéo dài ba tháng, bắt
đầu từ giữa tháng mười một đến giữa tháng hai
dương lịch; khóa mùa Hè kéo dài một tháng, từ giữa
tháng bảy đến giữa tháng tám, giảng dạy bằng tiếng
Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Khóa này rất đông, thiền
sinh từ khoảng 47 quốc gia tới, hè nào cũng trên bốn
ngàn người, có khi cần đến trên 30 vị giáo thọ giảng
dạy; lại có khóa bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày,
giảng bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Ngoài ra, tuần nào
cũng có hai ngày quán niệm (Chủ nhật và Thứ Năm), ta có
thể đến tham dự pháp thoại, pháp đàm, thiền hành,
thiền trà và ăn cơm chánh niệm. Để được tham dự các
khóa tu, ta cần ghi danh trước”.
Đệ
nhị thân
(thuật
ngữ, phép tu)
1. Thân thứ hai.
2. Tại Làng Mai, mỗi hành giả đều có thân thứ hai để chăm sóc gọi là đệ nhị thân. Người nào cũng có đệ nhị thân và người nào cũng là đệ nhị thân của một người khác. Hành giả phải chịu trách nhiệm về đệ nhị thân của mình, và nếu có ai hỏi về tình trạng của thân ấy, mình phải có khả năng cung cấp tin tức. Mình phải biết tình trạng sức khỏe, phẩm chất tu tập, những khả năng và những yếu kém của người ấy. Đến giờ ngồi thiền, đi thiền hoặc thọ trai, mình phải biết người ấy có mặt hay không, nếu không, mình phải biết lý do. Nếu người ấy bệnh, mình phải báo tin để người ấy được chăm sóc. Lên máy bay, xe buýt hoặc xe lửa, mình phải biết là người ấy đã có mặt trên máy bay hoặc trên xe chưa. Nếu mỗi người chăm sóc cho đệ nhị thân của mình thì cả tăng thân đều được chăm sóc.
1. Thân thứ hai.
2. Tại Làng Mai, mỗi hành giả đều có thân thứ hai để chăm sóc gọi là đệ nhị thân. Người nào cũng có đệ nhị thân và người nào cũng là đệ nhị thân của một người khác. Hành giả phải chịu trách nhiệm về đệ nhị thân của mình, và nếu có ai hỏi về tình trạng của thân ấy, mình phải có khả năng cung cấp tin tức. Mình phải biết tình trạng sức khỏe, phẩm chất tu tập, những khả năng và những yếu kém của người ấy. Đến giờ ngồi thiền, đi thiền hoặc thọ trai, mình phải biết người ấy có mặt hay không, nếu không, mình phải biết lý do. Nếu người ấy bệnh, mình phải báo tin để người ấy được chăm sóc. Lên máy bay, xe buýt hoặc xe lửa, mình phải biết là người ấy đã có mặt trên máy bay hoặc trên xe chưa. Nếu mỗi người chăm sóc cho đệ nhị thân của mình thì cả tăng thân đều được chăm sóc.
Đi
Gặp Mùa Xuân
(sách)
Một cuốn sách phiên tả từ băng giảng các bài pháp
thoại của Thầy Làng Mai và các tin tức sinh hoạt của
chùa Làng Mai. Nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành năm
1999.
Đi
Như Một Dòng Sông
(sách)
Một cuốn sách trích đăng các bài viết của Thầy Làng
Mai từ Lá Thư Làng Mai số 25, kỷ niệm 20 năm thành lập
Làng Mai, xuất bản tại Việt Nam năm 2002.
Địa Nghiêm |
Điều Nghiêm |
Điều
Phục Cơn Giận
(bài
tụng) Một
bài tụng được sử dụng trong các công phu sáng hoặc
chiều tại các thiền viện, có thể dùng cho cả hai phái
Thiền tông và Tịnh Độ tông. Đây là một trong những
bài tụng mới nên chưa có trong sách Nhật Tụng Thiền
Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn nhưng đã
có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2010, ấn bản Miền
Bắc và Miền Nam.
Điều
phục
tâm hành
(phép
tu)
Là
phương
pháp
thực
tập
sử
dụng
hơi thở
và bước
chân chánh
niệm
để
chăm
sóc
và
chuyển
hóa
những
tâm hành
trong ta. Có
51
loại
tâm hành.
Mỗi
khi một
tâm hành
phát
hiện,
ta dùng
năng lượng
chánh
niệm
được
chế
tác
bằng
hơi thở
và bước
chân để
nhận
diện
nó,
trước
hết
là
sự nhận
diện
đơn thuần.
Buồn
thì
biết
mình
đang buồn,
dùng
ánh
sáng
ý
thức
để
soi
rõ
và nhận
diện
nỗi
buồn.
Ta không nên đè
nén
cơn giận
hay nỗi
buồn.
Ta phải
cho phép
chúng
có
mặt
và
ôm
ngay lấy
chúng
bằng
năng lượng
chánh
niệm.
Có
chánh
niệm
là
có Bụt
bảo
hộ,
ta đã
được
đặt
vào
một
khung cảnh
an toàn
rồi.
Chỉ
thực
tập
thở
và đi
trong chánh
niệm
thôi, ta không nói
hay không làm
bất
cứ
một
điều
gì
để phản
ứng
lại
khi nỗi
buồn
hay cơn giận
còn
đó,
bởi
vì
nếu
ta phản
ứng
thì
sẽ có thể gây
đổ
vỡ trong
ta và
người
đối
diện.
Tiếp
tục
thở
và đi
trong chánh
niệm,
ta nhìn
sâu vào
tự
tánh
của
niềm
đau, nghĩa là
những
nguyên nhân xa gần
đã
làm
nó
phát
khởi.
Khi thấy
được hạt
giống
giận
hờn
và
tập
khí
hay
nổi
nóng
trong ta, và
khi
thấy
được
rằng
người
kia cũng đang có
nhiều
khổ
đau
và
tập
khí,
ta sẽ
hết
giận
và
thấy
rằng
chỉ
có sự thực
tập
hiểu
và
thương
mới
giúp
được
cho ta và
cho
cả
người
kia. Trừng
phạt
không phải
là
giải
pháp,
dù
sự trừng
phạt
ấy
được
thực
hiện
bằng
lời
nói
hay bằng
hành
động.
Khuynh hướng
muốn
trừng
phạt
người
kia, làm
cho người
kia đau khổ
để cho
mình
bớt
khổ
là khuynh
hướng
bạo
động
trong ta, ta phải
thấy
được
điều
này
trong khi thực
tập
hơi thở
và bước
chân ý
thức.
Khi vui thì
biết
là
mình
đang vui, dùng
năng lượng
chánh
niệm
nhận
diện
niềm
vui, thấy
được
nguyên nhân sâu xa của
niềm
vui trong ta để
tiếp
tục
duy trì
và phát
triển
niềm
vui đó.
Biết
chăm sóc
các
tâm hành,
ta sẽ
chuyển
hóa
được
những
tâm hành
bất
thiện
và
nuôi
dưỡng
được
những
tâm hành
thiện.
Định
đề giáo lý Làng Mai (khóa
giảng)
Nội dung các bài giảng của Thầy Làng Mai trong các khóa
mùa Xuân 2006, khóa mùa thu 2006 và An Cư Kiết Đông
2006-2007).
Xem thêm Ba
mươi sáu định đề giáo lý Làng Mai.
sư cô Định Nghiêm (nhạc trưởng) |
Định hướng thuyền đi trong vững chãi.
Nghiêm trang lòng đất nở hoa trời.
Đường xưa mây trắng còn nguyên vẹn.
Âm điệu hòa chung khúc thảnh thơi.
Là đệ tử thứ 20 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Định Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Sư cô nguyên là trụ trì chùa Từ Nghiêm, Xóm Mới. Sư cô thông thạo ba ngôn ngữ: Việt, Anh và Pháp.
Điển
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2005
(22 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 (22
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Ngọc Minh, pháp
tự Chân Điển Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hướng Dương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu
viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu
trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 294
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Điển Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Đóa
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1980, tập sự xuất gia năm 2005
(25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 (26
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Bối Từ, pháp
tự Chân Đóa Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hải Đường. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa
Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử
thứ 363 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đóa Nghiêm thuộc thế
hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Đoan
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt
Nam, quốc tịch Anh, sinh năm 1962, tập sự xuất gia năm
1989 (27 tuổi), thọ giới Sa Di Ni tháng 08 năm 1990 (28 tuổi)
tại chùa Cam Lộ – Làng Mai, pháp danh Tâm Hy Hữu, pháp
tự Chân Đoan Nghiêm. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 1993.
Thọ giới lớn năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích.
Nhận truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc
với bài kệ truyền đăng: Chân
giác vun trồng miền tuệ uyển. Đoan Nghiêm thuyền cập
bến thong dong. Công phu nở đóa sen ngàn cánh. Quê cũ vui
chơi thỏa nguyện lòng.
Là đệ tử thứ 05 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đoan
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đoàn
tụ
(lễ
lược)
Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 8 đến ngày 15
tháng 11 năm 2004 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông
2004-2005.
Độ
Nghiêm (tên
gọi) Một
vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Nga, Thọ giới Sa
Di Ni ngày 4 tháng 12 năm 1999 tại chùa Từ Nghiêm – Làng
Mai, pháp tự Chân Độ Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Anh Đào. Là đệ tử thứ 93 của Sư Ông Làng Mai.
Sư cô Độ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế
và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đội
luân phiên
(thuật
ngữ)
Tại mỗi xóm của Làng Mai, các vị xuất sĩ và cư sĩ
thường trú được chia đều thành các đội luân phiên
để giúp làm những công việc trực nhật như nấu ăn,
dọn dẹp, rửa nồi, thỉnh chuông, chấp tác. Tùy thuộc
vào số lượng các vị thường trú mà mỗi xóm tổ chức
số lượng đội luân phiên cũng như công việc cho từng
luân phiên. Càng nhiều đội thì vòng luân phiên càng dài.
Tiếng Anh là
rotation team.
Đôi
mắt Của Bụt
(khóa
tu)
Tên một khóa tu 21 ngày được tổ chức tại Làng Mai
tháng 6 năm 2000. Tiếng Anh là The
Eyes of Buddha.
Đối
Thoại-Cánh Cửa Hòa Bình (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai in chui tại Việt Nam
năm 1967.
Đồi
Mận (cơ
sở)
Một cư xá thuộc Xóm Hạ.
Đôn Nghiêm |
Đông
hùng tráng, xuân kiện hành
(thuật
ngữ)
Tên của khóa An Cư Kiết Đông từ ngày 4.1.2004 đến
28.3.2004 tại tu viện Lộc Uyển, Escondido, tiểu bang
California, Hoa Kỳ, có 238 vị xuất gia tham dự. Các vị
xuất gia tại đạo tràng Mai Thôn và tu viện Rừng Phong
đều quy tụ về đây để dự khóa an cư. Đại giới đàn
Lâm Tế đã được tổ chức trong khóa an cư này.
Đông
Phương Luận Lý Học
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Hương
Quê, Sài Gòn ấn hành năm 1950, họa sĩ Lê Văn Vinh trình
bày bìa. Sách trình bày một môn luân lý học Phật giáo
là Nhân Minh Học.
Đồng
Châu
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nam. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp với
bài kệ truyền đăng như sau: Chuông
sớm ngân nga tiếng đại Đồng. Giọt vàng Châu báu điểm
thinh không. Non cao sương tuyết lòng an định. Đường về
Phương Bối bước thong dong.
Đồng
Đạo
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nam Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với
bài kệ truyền đăng như sau: Đồng
bang đồng Đạo lại đồng tâm. Ngàn miệng muôn lời
xướng Phạm âm. Đường vui sương tuyết không ngần
ngại. Trái đất cùng ca khúc đại đồng.
Đồng
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2005
(17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 (17
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nhật Thanh, pháp
tự Chân Đồng Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hướng Dương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu
viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu
trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 303
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Đồng Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Đồng
Phúc (tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với
bài kệ truyền đăng như sau: Bên
nhau hát khúc Đồng tâm. Chồi non lộc mới Phúc phần tổ
tiên. Đồi xuân nắng gọi chân truyền. Một nhà xum họp
Tịnh Thiền không hai.
Đồng
Thời Tương Ứng
(thuật
ngữ)
Chủ đề của khóa An Cư Kiết Đông diễn ra từ ngày
14.11. 2007 đến ngày 15.2.2008 tại Đạo Tràng Mai Thôn.
Xem thêm
Sư Tử Vàng.
Đồng
Trung (tên
gọi)
Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai, Người
Việt Nam, xuất gia năm 1996 tại Việt Nam. Đến Làng Mai
từ năm 2005. Thầy Đồng Trung thuộc thế hệ thứ 43 tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 10 phái Chúc Thánh.
Đồng
Từ
(tên
gọi)Một
vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai.
Người Việt Nam, sinh năm 1967, xuất gia năm 1997 tại Việt
Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2009 trong đại
giới đàn Mùa Sen Mới với bài kệ truyền đăng như sau:
Huynh
đệ xưa nay một thể đồng. Đem tâm từ ái dựng tăng
thân. Công phu đền đáp ơn sâu nặng. Cành mai nở sáng
giữa đêm Đông. Đến
Làng Mai từ năm 2005. Thầy Đồng Từ thuộc thế hệ thứ
43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của phái Chúc
Thánh.
Động
tác chánh niệm
(thuật
ngữ)
xem Mười
động tác chánh niệm
Đời
Của Phật
(sách)
Một cuốn sách về cuộc đời đức Phật của Thầy Làng
Mai do Phật Học Đường Nam Việt xuất bản năm 1958.
Đời
Sống Tâm Linh
(sách)
Một cuốn sách trích đăng các bài viết của Thầy Làng
Mai từ Lá Thư Làng Mai số 27, in tại Việt Nam năm 2003.
Đức
Nghi
(tên
gọi)
Thượng tọa Đức Nghi. Viện chủ tu viện Bát Nhã. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn
Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng như sau: Kiếp
kiếp trau dồi giới Đức. Đời đời nghiêm hộ uy Nghi.
Khơi mở dòng thiêng cam lộ. Hậu lai diệu pháp vĩnh kỳ.
Đức
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Anh,
quốc tịch Anh, sinh năm 1949. Xuất gia và thọ giới lớn
ngày 10 tháng 11 năm 1988 tại núi Linh Thứu, Ấn Độ, pháp
danh Tâm An, pháp tự Chân Đức Nghiêm. Thường gọi là sư
cô Chân Đức hay sư cô Annabel. Sư cô nguyên là trụ trì
tại Tu Viện Thanh Sơn. Nhận truyền đăng năm 1990 với
bài kệ truyền đăng: Chân
như vằng vặc ánh trăng rằm. Đức độ cao dày nối
tổ đăng. Chuyển hóa công phu trình thật tướng. Pháp
mầu liên tục mãi tuyên dương. Là
đệ tử thứ 02 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chân Đức
thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ
9 của phái Liễu Quán. Sư cô là giáo sư tiếng Phạn và
rất giỏi tiếng Việt.
Đức
Nguyên
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng
Mai. Người Việt Nam, xuất gia năm 1992 tại Việt Nam. Thọ
Gio Lọn Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2007 trong
đại giới đàn Phương Bối với bài kệ truyền đăng
như sau: Nhật
dụng hành trì nuôi thật Đức. Công phu thiền quán lộ
chân Nguyên. Cơ duyên hóa độ trong gang tấc. Mỗi bước
chân đi mãn thệ nguyền.
Đến Làng Mai từ năm 2005.
Đức
Niệm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nam, được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với
bài kệ truyền đăng như sau: Đức
sáng nằm ngay trong đất tâm. Niệm lành vun tưới đã lên
mầm. Bồ đề cây ấy sum xuê lắm. Một sáng trần gian
dậy tiếng tăm.
Đức
Tạng
(tên
gọi) Một
vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người
Việt Nam, quốc tịch Canada, sinh năm 1988, tập sự xuất
gia năm 2002 (14 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 26 tháng 3 năm
2004 (16 tuổi) tại tu viện Lộc Uyển, pháp danh Trung Lý,
pháp tự Đức Tạng. Thọ giới lớn ngày 5 tháng 1 năm
2008 tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương Địa.
Là đệ tử của Thầy Pháp Hòa, gốc tu viện Trúc Lâm –
Canada. Đến Làng Mai từ năm 2006. Thầy thuộc thế hệ 43
tông Lâm Tế chánh tông.
Đức
Thành (tên
gọi) Một
vị xuất gia nam tu học tại Làng Mai. Người Việt Nam,
quốc tịch Canada, xuất gia năm 2000 tại Việt Nam, pháp
danh Tâm Minh Tuệ, pháp tự Đức Thành. Tới Làng Mai từ
năm 1992.
Đức
Phương
(tên
gọi)
Vị Hòa thượng trụ trì Diệu Đế Quốc Tự, Huế, nơi
diễn ra Đại Trai Đàn Chẩn Tế Bình Đẳng Giải Oan từ
ngày 2 – 4 tháng 4 năm 2007.
Đừng
bỏ gốc rễ
(phát
biểu)
Ngày 30 tháng 04 năm 2007 nhân dịp Thầy và phái đoàn Làng
Mai viếng thăm nhà thờ Phát Diệm ở Ninh Bình, Thầy Làng
Mai đã có lời phát biểu sau đây về vấn đề gốc rễ,
và sau đó là lời đáp của Linh Mục Phạm Ngọc Khuê.
Thầy Làng Mai: “Kính
thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với
con mắt của một thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao
lưu với các linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã
từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ
là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung
và tu tập chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó.
Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều buổi họp, nhiều hội
nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những
đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam
đã đọc kinh Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái
nhìn của một thiền sư. Ngày xưa tôi đã hứa với một
số các bạn trẻ là sẽ trình bày Phúc Âm qua cái nhìn
của thiền quán và may mắn là tôi đã làm được việc
đó. Trong thời gian 40 năm ở nước ngoài, chúng tôi đã
từng ngồi thiền với các vị linh mục và các vị mục
sư. Chúng tôi đã cùng hoạt động cho hòa bình, và trong
khi hoạt động cho hòa bình chúng tôi có cơ hội chia sẻ
với nhau những tuệ giác của chúng tôi về truyền thống
mình. Trong quá trình giao lưu, tôi có viết được những
tác phẩm có tính cách đối thoại giữa những người
theo Phật giáo và những người theo Ki Tô giáo. Cuốn sách
đầu tiên mà chúng tôi xuất bản về đề tài này là
“Living Buddha, Living Christ”. Bản Hoa Ngữ mang tên là
“Sinh Sinh Ki Tô, Thế Thế Phật” dịch ra tiếng Việt
là: “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời”, nghĩa là “Bụt
Bất Tử, Chúa Bất Tử.” Cuốn sách đó là kết quả
của một khóa tu mà chúng tôi tổ chức tại Đức, trong
đó có 50% là Phật tử và 50% là tín hữu Ki Tô giáo.
Chúng tôi đã gom lại những bài thuyết giảng và làm
thành cuốn sách Living Buddha, Living Christ. Cuốn sách này
đã đi rất xa, đã đi vào các tu viện kín và chúng tôi
cũng đã nhận được rất nhiều thư của các Cha và các
Sơ từ các tu viện kín. Cuốn sách đó giúp cho người
Phật Tử hiểu thêm đạo Ki Tô và giúp người Ki Tô hiểu
thêm về đạo Phật. Công đức của sách này rất lớn.
Ban đầu người ta đọc chỉ vì tò mò thôi, nhưng nhờ
sự tò mò đó mà có cơ hội hiểu được một nền đạo
đức mà lâu nay mình chỉ có một ý niệm mơ hồ. Sau
cuốn Living Buddha, Living Christ thì chúng tôi có cuốn Going
Home, Buddha and Jesus as Brother. (Chúng ta hãy về nhà đi
thôi, Bụt và Chúa là hai anh em). Sách này cũng được đón
nhận một cách rất nồng nhiệt ở trong giới độc giả
Tây Phương, Phật Tử cũng như Cơ Đốc giáo. Ở Mai Thôn
Đạo Tràng tại Pháp, mỗi năm đến ngày giáng sinh, chúng
tôi luôn luôn tổ chức lễ Giáng Sinh rất long trọng, tại
vì đa số các thiền sinh đều có nguồn gốc Ki Tô giáo.
Ngày giáng sinh rất nhiều thiền sinh Tây phương về Đạo
Tràng Mai Thôn như con cháu về nhà tổ phụ. Vì vậy vào
đêm Giáng Sinh tôi luôn luôn giảng một bài về Phật và
về Chúa. Tôi nhớ có một linh mục tên là Thomas Kwan
người Hồng Kông đã được nghe một bài như vậy và vị
linh mục này thấy rất tiếc, vì hôm đó chỉ có 600
người được nghe. Linh mục nói: “Tất cả các tín hữu
Cơ Đốc giáo trên thế giới phải được nghe bài này.
Để có thể thấy rõ Chúa và con đường của mình hơn”.
Tôi đã sưu tập được 10 bài giảng Giáng Sinh như thế,
làm được cuốn sách thứ hai gọi là “Chúng ta hãy về
nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em”. Rất tiếc là
hai cuốn nói trên chưa được dịch ra tiếng Việt. Những
người đến với chúng tôi trong các khóa tu tại Mỹ Châu
và Âu Châu, đại đa số là những người tín đồ Công
giáo, Tin Lành và Do Thái giáo. Chúng tôi khuyên họ không
nên bỏ đạo gốc của mình. Chúng tôi biết do kinh nghiệm
khi một con người mất gốc thì người đó không bao giờ
có hạnh phúc thật sự được. Vì vậy khi họ tới thực
tập theo pháp môn của đạo Phật chúng tôi yêu cầu họ
đừng bỏ gốc rễ của họ và khuyên họ sau khi tu tập
thành công rồi, khi đã chuyển hóa được những bức
xúc, khó khăn và giận hờn rồi thì hãy về với truyền
thống của mình và hãy giúp truyền thống mình làm mới
lại. Thanh niên bây giờ thấy được là giáo đường,
nhà thờ chưa cung cấp được những giáo lý và những
thực tập có thể đáp ứng được những khổ đau, những
bức xúc của họ. Vì vậy không chỉ đạo Phật phải
làm mới mà đạo Ki Tô cũng phải làm mới thì mới đáp
ứng được những nhu yếu của người trẻ hôm nay. Giới
trẻ hôm nay bỏ nhà thờ mà đi rất đông. Điều tôi nói
cũng rất trung thực với giáo lý của Phật tại vì Phật
giáo luôn luôn có thái độ rất cởi mở, phá chấp. Mình
không nên bám víu một giáo điều cho đó là chân lý
tuyệt đối và để rồi xem các giáo lý khác là tà đạo.
Vì vậy thái độ của người Phật Tử là giang tay ra ôm
lấy tất cả mọi người. Tình yêu trong đạo Phật là
“Từ, Bi, Hỷ, Xả.” Xả có nghĩa là inclusiveness, không
loại trừ bất cứ người nào ra khỏi tình thương của
mình, dù người đó không phải là đồng bào của mình,
không phải theo tôn giáo của mình. Tiếng pháp dịch là
équanimité. Tôi quyết hành động theo tinh thần này tại
vì hồi xưa các giáo sĩ tới Việt Nam truyền đạo đã
bắt người Việt mình phải bỏ đi tôn giáo gốc của
mình và điều đó đã gây đau khổ kkhông ít. Những
người có gốc gác Cơ Đốc giáo tới tu tập với chúng
tôi rất hạnh phúc vì họ có cảm tưởng là họ được
công nhận 100%, họ không cần phải từ bỏ niềm tin của
họ, gốc gác văn hóa của họ. Sau một thời gian thực
tập, họ có thể thấy, khám phá ra được những châu
báu trong truyền thống của họ mà trước đây họ chưa
thấy. Nhờ tiếp xúc với đạo Phật mà họ trở về và
khám phá ra những châu báu trong các gia sản tâm linh ở
Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo. Điều đó làm chúng tôi
rất vui mừng. Chúng tôi thường hay nói với các bạn Cơ
Đốc giáo là cõi Tịnh Độ hay cõi Niết Bàn có mặt
ngay trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta có trái tim
tinh khiết, trái tim có năng lượng của niệm, định và
tuệ, nếu chúng ta có mặt đích thực trong giây phút hiện
tại thì chúng ta có thể tiếp xúc được với những mầu
nhiệm của thế giới Cực Lạc, của Tịnh Độ có mặt
ngay trong giây phút hiện tại. Chúng ta không cần phải
chết đi mới sinh về Tịnh Độ, mà có thể đi vào trong
Tịnh Độ bằng mỗi bước chân, ngay bây giờ và ở đây.
Giáo lý ấy được thực tập tại Mai Thôn Đạo Tràng,
và chúng tôi cũng đã chia sẻ cho các bạn Cơ Đốc giáo
và Do Thái giáo. Chúng tôi nói rằng các bạn không cần
phải chết đi mới đi về nước Chúa. Nếu các bạn có
tình thương, có ý thức sáng tỏ, có tâm rộng mở thì
mỗi hơi thở và mỗi bước chân có thể đưa các bạn
vào nước Chúa trong giây phút hiện tại. Thiên Quốc có
mặt trong giây phút hiện tại. Trong đạo Phật các vị
tổ có nói rằng Tịnh độ và Phật nằm trong trái tim
của mình. Phúc Âm cũng nói như thế, Thiên Quốc nằm
trong trái tim của mình và vì vậy mình đi tìm thiên quốc
hay tịnh độ nơi khác và thời khác thì có thể sai. Khoa
học lượng tử bây giờ bắt đầu dùng danh từ phi cục
bộ, tiếng Anh là “non-local”. Cái thực tại lượng tử
là phi cục bộ, chúng ta không thể nào xác định vị trí
của một lượng tử trong thời gian hoặc không gian. Bản
chất của lượng tử là phi cục bộ. Chúng tôi nghĩ rằng
ngôn ngữ ấy chúng ta có thể áp dụng cho Phật Độ và
cho Thiên Quốc. Thượng Đế hay Thiên Quốc là những thực
tại phi cục bộ, chúng ta không thể xác định vị trí
của nó trong không gian và thời gian, tại vì nó nằm
trong trái tim của mình. Khi trái tim của mình đã sẵn
sàng rồi thì là mình đang ở trong Thiên Quốc, đang ở
với Thượng Đế, không cần phải trông chờ điều đó
trong tương lai. Chúng ta tu như thế nào, thực tập như
thế nào để Thiên Quốc có mặt trong giây phút hiện
tại. Chúng ta tu như thế nào, thực tập thế nào để
tịnh độ có mặt trong giây phút hiện tại. Và hạnh
phúc không cần chờ đến tương lai. Hiện pháp lạc trú
là một giáo lý Phật giáo. Nhà văn André Gide có nói một
câu làm tôi rất thích. Ông nói Thượng Đế tức là hạnh
phúc (Dieu est bonheur). Và ông nói thêm một câu nữa:
“Thượng Đế có mặt cho chúng ta 24 giờ một ngày ...”.
Những câu nói đó rất phù hợp với giáo lý đạo Phật.
Nếu chúng ta đi sâu vào Phúc Âm, chúng ta cũng thấy chân
lý đó, nghĩa là nếu chúng ta đem tâm trở về với thân
mà nhận diện được tất cả những cái mầu nhiệm đang
có mặt trong ta và xung quanh ta thì lúc đó ta đang ở
trong Thiên Quốc và ta đang tiếp xúc sâu sắc với Thượng
Đế. Nếu nhà thờ và nhà chùa có thể cung cấp được
những giáo lý đó và đưa ra những phương pháp thực tập
để con người có thể sống an lạc và hạnh phúc trong
giây phút hiện tại thì người ta sẽ không cần đi tìm
hạnh phúc ở sắc dục, tiền tài và danh vọng. Trong Phúc
Âm có câu chuyện một bác nông phu khám phá ra được một
kho tàng chôn giấu ở trong một đám ruộng và sau đó đi
về và bán đi những khu ruộng khác để chỉ mua một đám
ruộng đó. Khi chúng ta đã tu và tiếp xúc được với
nước Chúa và Chúa rồi thì chúng ta đâu cần những cái
khác nữa, chúng ta đâu cần danh, không cần lợi, không
cần sắc dục, không cần quyền lực, vì chúng ta đã
hạnh phúc chán. Vì vậy cái giáo lý nào và sự thực tập
nào giúp cho ta tiếp xúc được với Thiên Chúa trong giây
phút hiện tại thì đó là kho tàng châu báu của chúng
ta. Hạnh phúc ấy chúng ta có thể đạt được trong giây
phút hiện tại, không cần phải chết đi mới có. Nói
chuyện với các bạn Do Thái giáo và Ki Tô giáo chúng tôi
cũng chia sẻ cách thực tập, mỗi hơi thở mỗi bước
chân của mình có thể đưa mình vào Thiên Quốc mà đừng
trông chờ Thiên Quốc ở tương lai. Tôi nhớ có một lần
thăm viếng Đại Hàn tôi được tham dự vào một buổi
giao lưu giữa người Ki Tô giáo và người Phật tử: đó
là lần đầu tiên mà người Phật tử và người Cơ Đốc
giáo tới với nhau. Tôi có đưa ra vấn đề có những
thanh niên thiếu nữ khác tôn giáo yêu nhau. Bên này bắt
bên kia phải bỏ đạo, phải chọn lựa. Đó là một vấn
đề còn tồn tại ở nhiều nước và ngay trong nước
Việt Nam chúng ta. Và biết bao nhiêu cặp thanh niên thiếu
nữ đã đau khổ tại vì thế. Tôi nghĩ rằng một người
có thể rất hạnh phúc khi có hai gốc rễ, một gốc rễ
Cơ Đốc giáo và một gốc rễ Phật giáo. Hai cái đó
không nhất thiết phải loại trừ nhau. Tại vì mình hẹp
hòi cho nên mình mới thấy hai cái khác nhau chống đối
nhau. Nhưng nếu mình vượt lên, thấy được hai truyền
thống có thể bổ túc cho nhau thì mình sẽ có một thái
độ cởi mở hơn. Trong số các đệ tử của tôi có rất
nhiều các thầy các sư cô có gốc Cơ Đốc giáo và Do
Thái giáo, nhưng họ hạnh phúc vô cùng khi được tu tập
và ôm ấp luôn cả hai truyền thống. Ngay trong phái đoàn
của chúng tôi có mặt hôm nay có một vị đại đức
ngày xưa đã từng làm linh mục. Vị linh mục đó tới
với đạo Phật và khám phá ra những phương pháp thực
tập rất thiết thực có thể thực hiện được lý tưởng
của Cơ Đốc giáo. Chúng ta thấy có hai gốc rễ đôi khi
lại hay hơn có một gốc rễ và vì vậy ngay trong đại
hội đó tôi đã đề nghị khi hai thanh niên yêu nhau, một
người thuộc về Cơ Đốc giáo, một người thuộc về
Phật giáo thì cả hai gia đình nên cho họ cưới nhau với
điều kiện hai bên công nhận truyền thống của người
bên kia và nếu người con trai là Cơ Đốc giáo và người
con gái là Phật giáo thì người con gái phải học thêm
Cơ Đốc giáo và người con trai phải học thêm Phật
giáo. Và đến ngày chủ nhật thì hai người cùng đi nhà
thờ, đến ngày mồng một và ngày rằm thì hai người
cùng đi Chùa. Và điều đó là điều chúng tôi đã thực
hiện được ở Tây phương. Tại sao chúng ta phải để
cho các bạn trẻ tiếp tục đau khổ năm này qua năm khác?
Và đó là tinh thần cởi mở mà chúng tôi đã thấy được
rõ ràng khi đọc kinh Phật và kinh Thánh. Hôm nay tôi xin
nói ra vài cái thấy của tôi cũng như một món quà hiến
tặng quý vị có mặt ở đây”. Sư
cô Chân Không hỏi:
Như Thầy Làng Mai đề nghị tức là khi một người Công
giáo và một người Phật giáo thương yêu nhau thì người
Phật tử nên học hỏi những gì tinh ba nơi Công giáo và
gia đình phải đi nhà thờ vào những ngày chủ nhật và
đi chùa vào mồng một và ngày rằm. Con xin hỏi là quý
vị linh mục có chấp nhận được như vậy không? Hay là
người Phật tử chỉ phải theo đạo của người chồng,
phải làm lễ rửa tội và phải từ bỏ đạo Phật? Con
xin hướng câu hỏi này về cho các vị tôn đức bên phía
Công giáo. Cha
Phạm Ngọc Khuê trả lời: “Đây
là một câu hỏi có thể nói là thật sự rất tế nhị
và rất thời sự. Trước hết tôi xin được nêu lên
nguyên tắc về giáo luật và kinh thánh. Thiên chúa không
bao giờ ngăn cản con người tự nguyện, nhất là trong
việc hôn nhân gia đình thì không có bao giờ ngăn cản
hai người thương yêu nhau. Giáo hội không bao giờ chặn
ngăn hai người nam nữ yêu thương và tiến tới hôn nhân
với nhau, điều đó là chắc chắn thuộc về giáo luật,
không ai có quyền ngăn cản tình yêu của họ, vì đó là
tuyệt đối. Nhưng tại sao lại giữa nam nữ tín đồ các
tôn giáo khác nhau lại xảy ra những vấn đề mà người
ta chưa đi đến chỗ kết hôn với nhau thì do đâu? Trong
thực hành việc phục phụ hôn phối, đối với anh em
trong Công giáo chúng tôi, đối với danh Chúa, đối với
người tín đồ Công giáo cũng như giáo hội thì chúng
tôi không bao giờ đặt vấn đề là phải trở thành
người Công giáo thì mới có thể cưới (nhau) về phía
Công giáo của mình (trở thành vợ chồng). Không bao giờ
có vấn đề đó, chúng tôi luôn luôn tôn trọng tình yêu
của họ. Và tôi nói với người nam hoặc người nữ là
tình yêu của các anh chị là tình yêu tuyệt đối và
chúng tôi tôn trọng. Tuy nhiên khi hai người quyết định
yêu thương nhau thì đức tin của người tín đồ Ki Tô
giáo cũng như Phật giáo phải được tôn trọng bởi sự
tự do của họ. Cũng như Thầy Thích Nhất Hạnh đã nói
là họ phải sống cội rễ của họ thì họ mới thấy
hạnh phúc. Và cái việc họ được chịu phép rửa tội
là hoàn toàn tự do. Cho nên giáo hội chỉ nói một điều
này. Khi tiến tới hôn nhân thì hai người phải hứa là
tôn trọng quyền lợi của nhau và niềm tin của mỗi
người, và không được vi phạm. Vì vậy về phía tín đồ
tôn giáo khác phải cam đoan, có thể nói là tuyên thệ tôn
trọng niềm tin vì đó là lãnh vực thiêng liêng và tự
do tôn giáo, không ai được can thiệp. Tôn trọng niềm
tin của tín đồ thiên chúa giáo, không được ngăn cản.
Nếu họ giữ được như thế thì cuộc hôn phối đó
được tốt đẹp và thành sự trước mặt Chúa và trước
luật pháp. Luật thì như vậy, nhưng trong thực tế thì
không luôn luôn được xảy ra như vậy. Hoàn cảnh của
Việt Nam thì khác nữa, nghĩa là trong hoàn cảnh rơi rớt
của chế độ phong kiến vẫn còn nhiều cho nên quý vị
biết rõ là ở Việt Nam người nam có quyền hơn người
phụ nữ. Mặc dù họ hứa như vậy, nhưng khi về nhà mà
hai vợ chồng không hòa thuận với nhau, cơm không lành,
canh không ngọt khi họ sống chung với nhau và nếu như có
chiến tranh trong gia đình thì họ đổ lỗi trên đầu tín
đồ của mình, hoặc người Ki Tô giáo hoặc người Phật
giáo, tôi không nói là về phía này hay phía kia. Nếu
người chồng có quyền thì sẽ buộc người vợ không
theo tín đồ của mình, theo tôn giáo của mình nữa, và
có thể gây khó khăn trong gia đình. Chính vì vậy mà Giáo
Hội đặt ra điều kiện là nếu một người tín đồ
tôn giáo khác lấy một người Công giáo, rồi sau đó
người tín đồ tôn giáo khác đó không giữ lời tuyên
thệ trung thành thì người tín hữu Công giáo có thể
trình lên thẩm quyền nguồn Thánh, có thể tháo cái hôn
phối mà người ta đã cam kết chỉ vì nếu nó đe dọa
đến niềm tin tự do của tín đồ thì giáo hội phải
bảo vệ con cái của mình. Quý vị phải hiểu đây không
phải là bắt buộc phải làm. Các gia đình đó là do
truyền thống của gia đình, hoàn cảnh của gia đình muốn
con cái của mình giòng sớ, cũng như quý cô, quý ông bà
cũng như quý vị muốn cho gia đình mình cùng một chiều
cho dễ, để việc đó cho dễ hơn. Về phía giáo hội thì
không đứng ra ngăn cản việc hôn nhân của họ. Xin quý
vị hiểu rõ là về luật giáo không ép buộc người ta
bỏ tôn giáo của mình mà ngược lại là buộc một trong
hai người phải tôn trọng tôn giáo của nhau. Phải dành
ưu tiên nhất cho người bạn đời theo tôn giáo đó để
thực hành niềm tin tôn giáo mà không ngăn cản họ giữ
đức tin riêng của họ.
Đừng
Quên, Xin Đừng Vội Quên
(sách)
Một tập sách mỏng của Thầy Làng Mai do Tổng Hội Sinh
Viên Vạn Hạnh Sài Gòn ấn hành năm 1965, gây cảm hứng
cho người trẻ tham dự vào hoạt động chấm dứt chiến
tranh.
Đương
Nghiêm
(tên
gọi) Một
vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1989, tập sự xuất gia năm 2008
(19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 08 tháng 03 năm 2009 (20
tuổi) tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Diệu Thu, pháp tự
Chân Đương Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Sen Vàng. Là đệ tử thứ 617 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô
Đương Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và
thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Đường
Chánh Niệm
(địa
danh)
tiếng
Anh là Mindfulness
Road.
Tên con đường chạy qua tu viện Bích Nham. Trước đó tên
là Đường Khách sạn (Hotel
Road),
sau khi tu viện Bích Nham thành lập, thành phố đã cho phép
đổi tên thành Đường Chánh Niệm.
Đường
Hoa Thủy Tiên
(sách)
Một cuốn sách đăng các bài pháp thoại của Thầy Làng
Mai, in tại Việt Nam vào khoảng năm 1991.
Đường
Tùng
(địa danh)
Một con đường xuyên qua cánh rừng tùng im mát, rẽ nhánh
từ con đường thiền hành trước mặt cốc Ngồi Yên ở
Xóm Thượng dẫn xuống chùa Sơn Hạ. Thầy Làng Mai thường
thích đưa thị giả, các đệ tử cũng như khách quý
dạo chơi xuống chùa Sơn Hạ qua đường Tùng này.
Đường
Về Vườn Nai
(sách, cẩm nang tu tập) 1.
Một cuốn sách phiên tả từ băng các bài giảng của
Thầy Làng Mai cho khóa tu Gia Đình Phật Tử tại Hoa Kỳ
năm 1997, được in tại Việt Nam năm 2003. 2.
Một tập sách mỏng (cẩm nang tu tập) chỉ dẫn thiền
sinh cách thực tập ở Tu Viện Lộc Uyển, để thời gian
cư trú tại Tu Viện đem tới được nhiều niềm vui, trị
liệu và chuyển hóa. Tập sách do các thầy và các sư cô
giáo thọ ở Tu Viện Lộc Uyển biên soạn, nội dung cũng
tương tự như tập sách Để Nuôi Lớn Hạnh Phúc Trong
Thời Gian ở Làng Mai. Đoạn đầu giới thiệu vài nét về
Tu Viện Lộc Uyển như sau:
“Deer Park là tên một thung lũng ẩn mình giữa những
sườn đồi phía Tây Bắc thành phố Escondido, thuộc quận
San Diego, tiểu bang California, với diện tích 434 mẫu Anh,
có cảnh núi đồi hùng vĩ và những rừng cây cho nhiều
bóng mát. Cách đây hơn hai ngàn sáu trăm năm, tại vườn
Lộc Uyển, xứ Isipatana gần Benares (Ba La Nại), đức Bụt
lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp khai thị cho năm anh em
ông Kiều Trần Như con đường đưa đến giác ngộ và
giải thoát. Do một cơ duyên mầu nhiệm, hai ngàn sáu trăm
năm sau, bánh xe pháp tiếp tục được luân chuyển tới
một vùng đồi núi có cùng tên Lộc Uyển - Deer Park.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Tu Viện Lộc
Uyển cùng với sự ủng hộ của tứ chúng ở khắp nơi
đã xây dựng nên một trung tâm tu học nơi đây. Tu viện
đã chính thức được thành lập vào tháng 06 năm 2000.
Đây là một sự sắp xếp của chư Tổ và ông bà tổ
tiên người Hoa Kỳ cũng như người Việt. Tu viện gồm
có hai xóm: Xóm Vững Chãi (Solidity Hamlet) dành cho quý
thầy, vùng đất nằm phía trên đỉnh đồi và Xóm Trong
Sáng (Clarity Hamlet) dành cho quý sư cô, vùng đất dưới
đồi xanh mát. Cơ sở tuy còn đơn sơ, phòng ốc còn thiếu
tiện nghi, nhưng với những bàn tay và tấm lòng của quý
thầy, quý sư cô và các vị thân hữu trong vùng, và với
năng lượng tu tập hàng ngày, tu viện đã trở thành một
nơi nương tựa cho tứ chúng về tu học. Với trên 30 vị
xuất gia thường trú, tu viện đã thường xuyên tổ chức
các khóa tu học hàng năm như khóa An Cư Kiết Đông từ
tháng 12 đến cuối tháng 02 dương lịch, khóa Mùa Xuân từ
tháng 03 đến tháng 07 dương lịch, trại Hè dành cho các
em thanh thiếu niên (Teenage Mindfulness Camp) vào cuối tuần
lễ Độc Lập của Mỹ (ngày 04 tháng 07), và khóa Mùa Thu
dành cho người Việt vào tuần lễ đầu của tháng 09.
Ngoài ra mỗi tuần tu viện còn cung cấp hai ngày quán niệm
(Thứ Năm và Chủ Nhật) cho thiền sinh đến nghe pháp
thoại, tham dự pháp đàm, thiền tọa, thiền hành, thiền
trà và ăn cơm chánh niệm. Về đến Lộc Uyển là về
tới nhà, ngôi nhà tâm linh của tất cả mọi người. Vào
những buổi sáng sớm leo lên đỉnh núi, ngồi tọa thiền
trên những phiến đá bằng phẳng, tiếp xúc với đất
trời và không khí trong lành, chúng ta sẽ có cơ hội trở
về với chính mình trong giây phút hiện tại. Xin chúc quý
thân hữu xa gần về đây có được những ngày tu học
thật an lạc và thảnh thơi”.
ĐườngXưa Mây Trắng – theo gót chân Bụt
(sách, kịch) (địa chỉ tải sách điện tử Đường Xưa Mây Trắng về đọc prc, pdf, doc )
1. Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành lần đầu năm 1988, sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần ở các nước. Cuốn sách về cuộc đời của Bụt và hiện đang được công ty M Corp Global dựng thành phim. Bản dịch tiếng Anh tựa đề Old Path White Cloud; bản dịch tiếng Hoa tựa đề Cổ Đạo Bạch Vân. Sách này dựa trên các kinh và luật của Phật Giáo Nguyên Thỉ trong tạng Pali cũng như trong tạng Hán và mỗi chương đều có ghi xuất xứ của tài liệu sử dụng. Trong tư liệu là Nguyên Thỉ nhưng cái nhìn là cái nhìn phóng khoáng của Đại Thừa, vì thế độc giả của cả Phật giáo Bắc Tông và Nam Tông đều cảm thấy thoải mái khi đọc. Đọc xong về cuộc đời của Bụt thì ta cũng tiếp nhận xong được những giáo lý căn bản nhất của Bụt dạy. Ấn bản tiếng Pháp (Sur les traces de Siddhartha) có in câu ấy ngoài bìa: ‘‘Découvir l’enseignement du Buddha en cheminant à ses côtes.”
2. Tên vở kịch được đoàn kịch Biloxi 48 dàn dựng dựa trên nguyên tác Đường Xưa Mây Trắng – theo gót chân Bụt của Thầy Làng Mai. Kịch bản và đạo diễn: nghệ sỹ Christine Delmotte với sự cộng tác của người bạn đồng nghiệp tài danh giáo sư Paul Edmond. Nghệ sỹ Christine Delmotte đã làm việc miệt mài suốt ba năm để có thể hoàn thành vở kịch – ‘vở kịch nói về đạo Bụt mà cô vẫn từng ao ước được thực hiện’ – và để qua đó trình bày lên sân khấu tất cả cái đẹp về tuệ giác đạo Bụt thể hiện qua con người thái tử Tất Đạt Đa cũng như những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong cuộc đời Bụt như đức vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Kiều Đàm Di, công chúa Da Du Đà La, đức vua Bimbisara, các đệ tử ưu tú Xá Lợi Phất, A Nan Đa, Angulimala, … Nhóm nghệ sỹ thực hiện vở kịch là những nghệ sỹ chuyên nghiệp, từng được đào tạo trong những trường kịch nghệ nổi tiếng của Bỉ và đã từng về Làng Mai tu học, trong đó có một phụ nữ Việt Nam là cô Lê Bá Thị Bạch Lan. Vở kịch được công diễn bằng tiếng Pháp trên sân khấu nhà hát lớn của Bruxelles – Theatre de la Place des Martyrs – từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 31 tháng 5 năm 2008.
1. Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành lần đầu năm 1988, sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần ở các nước. Cuốn sách về cuộc đời của Bụt và hiện đang được công ty M Corp Global dựng thành phim. Bản dịch tiếng Anh tựa đề Old Path White Cloud; bản dịch tiếng Hoa tựa đề Cổ Đạo Bạch Vân. Sách này dựa trên các kinh và luật của Phật Giáo Nguyên Thỉ trong tạng Pali cũng như trong tạng Hán và mỗi chương đều có ghi xuất xứ của tài liệu sử dụng. Trong tư liệu là Nguyên Thỉ nhưng cái nhìn là cái nhìn phóng khoáng của Đại Thừa, vì thế độc giả của cả Phật giáo Bắc Tông và Nam Tông đều cảm thấy thoải mái khi đọc. Đọc xong về cuộc đời của Bụt thì ta cũng tiếp nhận xong được những giáo lý căn bản nhất của Bụt dạy. Ấn bản tiếng Pháp (Sur les traces de Siddhartha) có in câu ấy ngoài bìa: ‘‘Découvir l’enseignement du Buddha en cheminant à ses côtes.”
2. Tên vở kịch được đoàn kịch Biloxi 48 dàn dựng dựa trên nguyên tác Đường Xưa Mây Trắng – theo gót chân Bụt của Thầy Làng Mai. Kịch bản và đạo diễn: nghệ sỹ Christine Delmotte với sự cộng tác của người bạn đồng nghiệp tài danh giáo sư Paul Edmond. Nghệ sỹ Christine Delmotte đã làm việc miệt mài suốt ba năm để có thể hoàn thành vở kịch – ‘vở kịch nói về đạo Bụt mà cô vẫn từng ao ước được thực hiện’ – và để qua đó trình bày lên sân khấu tất cả cái đẹp về tuệ giác đạo Bụt thể hiện qua con người thái tử Tất Đạt Đa cũng như những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong cuộc đời Bụt như đức vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Kiều Đàm Di, công chúa Da Du Đà La, đức vua Bimbisara, các đệ tử ưu tú Xá Lợi Phất, A Nan Đa, Angulimala, … Nhóm nghệ sỹ thực hiện vở kịch là những nghệ sỹ chuyên nghiệp, từng được đào tạo trong những trường kịch nghệ nổi tiếng của Bỉ và đã từng về Làng Mai tu học, trong đó có một phụ nữ Việt Nam là cô Lê Bá Thị Bạch Lan. Vở kịch được công diễn bằng tiếng Pháp trên sân khấu nhà hát lớn của Bruxelles – Theatre de la Place des Martyrs – từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 31 tháng 5 năm 2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét