Các
khóa giảng căn bản của Làng Mai
(khóa giảng) Đây là những khóa
giảng mà một vị giáo thọ được đào tạo tại Làng
Mai phải học qua và phải biết áp dụng vào sự thực
tập. Những khóa giảng này được các vị giáo thọ sử
dụng để hướng dẫn các học tăng trong chương trình
bốn năm của Viện Cao Đẳng Phật Học. Tất cả đều
sẽ được đưa lên mạng Làng Mai để các vị giáo thọ
ngoài Làng Mai có thể tải xuống để học hỏi, thực
tập và sử dụng.
- Ba mươi bài tụng duy thức (An Cư Kiết Đông 1988-1989).
- Tạng Kinh Nam Truyền (An Cư Kiết Đông 1989-1990).
- Tạng Kinh Bắc Truyền, lịch sử tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa (An Cư Kiết Đông 1990-1991 và 1991-1992). Từ khóa này đã có những sách sau đây được phiên tả và ấn hành: Bồ Tát Tại Gia, Bồ Tát Xuất Gia (giảng Kinh Duy Ma Cật), Sen Nở Trời Phương Ngoại (giảng Kinh Pháp Hoa), Kim Cương Gươm Báu Chặt Đứt Phiền Não (giảng Kinh Kim Cương), tất cả đều do Lá Bối xuất bản.
- Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu (An Cư Kiết Đông 1992-1993, khóa mùa xuân 1993).
- Trái Tim Của Bụt (Phật Pháp Căn Bản, An Cư Kiết Đông 1993-1994), các bài pháp thoại trong khóa giảng này đã được phiên tả và xuất bản thành sách Trái Tim Của Bụt (do nhà Lá Bối ấn hành).
- Tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc (Kinh Samadhi, khóa mùa Thu 1994). Nội dung khóa này đã được làm thành sách nhan đề là Hạnh Phúc, Mộng và Thực (do nhà Lá Bối ấn hành).
- Truyền thống sinh động của thiền tập (An Cư Kiết Đông 1994-1995, 1995-1996, và 1996-1997). Khóa giảng này đã được làm thành sách nhưng chưa xuất bản, sẽ được đưa lên mạng.
- Công Phu Nở Đóa Sen Ngàn Cánh (An Cư Kiết Đông 1997-1998, khóa mùa Xuân 1998, An Cư Kiết Đông 1998-1999, khóa mùa Xuân 1999). Khóa này giảng về tất cả các kinh và bài tụng trong sách Nhật Tụng Thiền Môn 2000, tương đương với sách Nhị Khóa Hợp Giải trong truyền thống.
- Nhiếp Đại Thừa Luận (An Cư Kiết Đông 2000-2001), nền tảng của Duy Biểu Học.
- Trung Quán Luận, con đường vượt thoát Lưỡng Biên (An Cư Kiết Đông 2001-2002 và 2002-2003).
- Lâm Tế Lục (An Cư Kiết Đông 2003-2004 và 2004-2005).
- Giới và Luật, lịch sử và hành trì (An Cư Kiết Đông 2004-2005).
- Dị Bộ Tông Luân Luận (lịch sử và tông chỉ các bộ phái Phật giáo, An Cư Kiết Đông 2005-2006).
- Các Định đề giáo lý Làng Mai (khóa mùa Xuân 2006, khóa mùa thu 2006 và An Cư Kiết Đông 2006-2007).
- Kim Sư Tử Chương (An Cư Kiết Đông 2007-2008).
- Con đường của Bụt - những đóng góp của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu (An cư Kiết Đông 2008 - 2009, khóa tu 21 ngày năm 2009).
Call
Me By My True Names (sách)
Tuyển tập thơ bằng tiếng Anh của Thầy Làng Mai do nhà
Parallax ấn hành năm 1992 tại Hoa Kỳ. Được dịch ra
nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước trên thế
giới.
Cam
Lộ (cơ
sở, điện đường, lễ lược, nhạc kinh)
1. Ngôi chùa thuộc Xóm Hạ, do sư cô Diệu Nghiêm trú trì. Địa chỉ: Meyrac, 47120 Loubes-Bernac, France.
2. Tên một thiền đường thuộc Xóm Hạ.
3. Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 10 đến ngày 11 tháng 1 năm 1992 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 1998 – 1999. Đây là đại giới đàn đầu tiên tại Làng Mai được cử hành theo nghi lễ truyền thống nhưng tất cả các văn kiện và nghi thức cổ truyền được chính Sư Ông Làng Mai soạn thảo và chuyển ra Việt ngữ thành những bản văn có giá trị văn chương và trở thành những văn kiện quý giá cho các đại giới đàn sau này.
4. Một bài nhạc kinh, lời của Thầy Làng Mai, nhạc sĩ Anh Việt phổ nhạc. Tào Khê một dòng biếc. Chảy mãi về phương đông. Quan Âm bình nước tịnh. Tẩy sạch dấu phong trần. Cành dương rưới cam lộ. Làm sống dậy mùa xuân. Đề hồ trong cổ họng. Làm lắng dịu muôn lòng. Nam Mô Bồ Tát Cam Lộ Vị.
1. Ngôi chùa thuộc Xóm Hạ, do sư cô Diệu Nghiêm trú trì. Địa chỉ: Meyrac, 47120 Loubes-Bernac, France.
2. Tên một thiền đường thuộc Xóm Hạ.
3. Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 10 đến ngày 11 tháng 1 năm 1992 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 1998 – 1999. Đây là đại giới đàn đầu tiên tại Làng Mai được cử hành theo nghi lễ truyền thống nhưng tất cả các văn kiện và nghi thức cổ truyền được chính Sư Ông Làng Mai soạn thảo và chuyển ra Việt ngữ thành những bản văn có giá trị văn chương và trở thành những văn kiện quý giá cho các đại giới đàn sau này.
4. Một bài nhạc kinh, lời của Thầy Làng Mai, nhạc sĩ Anh Việt phổ nhạc. Tào Khê một dòng biếc. Chảy mãi về phương đông. Quan Âm bình nước tịnh. Tẩy sạch dấu phong trần. Cành dương rưới cam lộ. Làm sống dậy mùa xuân. Đề hồ trong cổ họng. Làm lắng dịu muôn lòng. Nam Mô Bồ Tát Cam Lộ Vị.
Sc Cao Nghiêm |
Cánh Đại Bàng (điện đường) Tên một thiền đường mới được xây dựng năm 2006 tại tu viện Bát Nhã. Thiền đường có khả năng chứa được hai ngàn người.
Cảnh
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1981,
tập sự xuất gia năm 2005 (24 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 8 tháng 1 năm 2006 (26 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Chúc Thu, pháp tự Chân Cảnh Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Hồng Giòn. Thọ giới Thức
xoa ma na năm 2008 tại tu viện Bát Nhã trong đại giới đàn
Thanh Lương Địa. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009
tại Làng Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ
tử thứ 314 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cảnh Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Căn
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm 1983, tập
sự xuất gia năm 2008 (25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20
tháng 09 năm 2008 (25 tuổi) tại Chùa Pháp Vân – Làng Mai,
pháp danh Tâm Minh Diệu, pháp tự Chân Căn Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ
561 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Căn Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Cắm
rễ trong tăng thân (thuật
ngữ) Tu học trong một đoàn
thể mà chấp nhận được đoàn thể ấy là gia đình tâm
linh của mình, thấy được mọi người trong tăng thân là
anh chị em của mình, không bao giờ có ý muốn rời tăng
thân, tin tưởng vào tăng thân, có hạnh phúc khi sống với
tăng thân.
Cẩm
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1989,
tập sự xuất gia năm 2005 (16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 8 tháng 1 năm 2006 (17 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Diệu Yêm, pháp tự Chân Cẩm Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Hồng Giòn. Thọ giới Thức
Xoa Ma Na năm 2008 tại tu viện Bát Nhã trong đại giới đàn
Thanh Lương Địa. Là đệ tử thứ 349 của Sư Ông Làng
Mai. Sư cô Cẩm Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Cần
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Úc, sinh năm 1950, tập sự
xuất gia năm 2001 (51 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng
2 năm 2002 (52 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp
danh Tâm Diệu Hoa, pháp tự Chân Cần Nghiêm. Sư cô thuộc
gia đình xuất gia Cây Thốt Nốt. Thọ giới Thức Xoa Ma
Na năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế tại tu viện Lộc Uyển. Thọ giới lớn
ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ tại Làng Mai.
Là đệ tử thứ 131 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cần
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Cẩn
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1985,
tập sự xuất gia năm 2005 (20 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 8 tháng 1 năm 2006 (21 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Bối Nguyện, pháp tự Chân Cẩn Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hồng Giòn. Thọ giới
Thức xoa ma na năm 2008 tại Làng Mai trong đại giới đàn
Thanh Lương Địa. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009
tại Làng Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ
tử thứ 324 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cẩn Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Cẩn
Trọng (bài
hát) Một bài hát do Thầy Làng Mai và
bé Trần Đông Phương viết lời và phổ nhạc. Qua ngõ
vắng. Lá rụng đầy. Tôi theo con đường nhỏ. Đất hồng
như môi son bé thơ. Bỗng nhiên tôi cẩn trọng. Từng bước
chân đi.
Cát
Nghiêm (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ
của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh
năm 1978, tập sự xuất gia năm 2000 (22 tuổi), thọ giới
Sa Di Ni ngày 12 tháng 2 năm 2001 (23 tuổi) tại chùa Pháp
Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm Nguyên Từ, pháp tự Chân
Cát Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trà My. Thọ
giới Thức Xoa Ma Na năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế.
Thọ giới lớn ngày 9 tháng 2 năm 2004 trong đại giới đàn
Lâm Tế. Nhận truyền đăng tại Làng Mai năm 2008 trong đại
giới đàn Thanh Lương Địa với bài kệ truyền đăng:
Cát tường hiện nét trang Nghiêm.
Quê xưa hoa nở đất thiêng nhiệm mầu.
Sen hồng tịnh độ cho nhau.
Một kho gia bảo truyền trao muôn đời.
Là đệ tử thứ 120 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cát Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Cát tường hiện nét trang Nghiêm.
Quê xưa hoa nở đất thiêng nhiệm mầu.
Sen hồng tịnh độ cho nhau.
Một kho gia bảo truyền trao muôn đời.
Là đệ tử thứ 120 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cát Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Câu
chuyện dòng sông (thuật
ngữ) Hình ảnh được Thầy Làng Mai
thường sử dụng để giúp thiền sinh thấy được cái
mình đi tìm đã có sẵn trong tự thân mình. Đây là giáo
lý vô đắc. Tuổi trẻ được ví như một dòng suối,
chảy ào ạt, mau về tới biển. Đến khi thành dòng sông,
nước chảy chậm lại, và dòng sông chảy êm ả hơn.
Dòng sông phản chiếu các đám mây đủ sắc, và bắt đầu
chạy theo các đám mây. Đám mây tan biến thì dòng sông
sầu khổ. Đến khi nhận ra sự thật là đám mây và nước
cùng một bản thể thì dòng sông không còn rong ruổi nữa,
và đạt tới trạng thái Hiện Pháp Lạc Trú.
Câu
linh chú thứ năm (thuật
ngữ) Đây là một lời trào
phúng. Một vị hành giả cư sĩ có một bà vợ hơi khó
tính, sau khi học hỏi về bốn câu linh chú (xem thêm bốn
câu linh chú) đã nói: “tôi cần có câu linh chú thứ
năm mới có thể được yên nhà, yên cửa”. Đó là mỗi
khi bà vợ nói gì thì anh ta nói: Vâng, em nói đúng
(Yes, madam).
Cây
Anh Đào (gia
đình) Nhóm 16 vị cùng được
xuất gia ngày 04 tháng 12 năm 1999 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Anh Đào gồm các thầy và các sư cô: Chân Quy Nghiêm,
Chân Giác Nghiêm, Chân Pháp Lữ, Chân Pháp Duyên, Chân Khế
Nghiêm, Chân Hội Nghiêm, Chân Đạo Nghiêm, Chân Độ
Nghiêm, Chân Thành Nghiêm, Chân Pháp Cơ, Chân Pháp Tuệ,
Chân Thệ Nghiêm, Chân Châu Nghiêm, Chân Hảo Nghiêm, Chân
Pháp Vị, Chân Mẫn Nghiêm
Cây
Bồ Đề (gia
đình) Thầy Chân Pháp Ấn, xuất gia
ngày 24 tháng 5 năm 1992 tại Làng Mai.
Cây
Bông Sứ (gia
đình) Nhóm 12 vị cùng được xuất
gia ngày 18 tháng 05 năm 2000 tại Làng Mai. Gia đình Cây
Bông Sứ gồm các thầy và các sư cô: Chân Thông Nghiêm,
Chân Quả Nghiêm, Chân Hộ Nghiêm, Chân Đẳng Nghiêm, Chân
Thuận Nghiêm, Chân Pháp Cần, Chân Phụng Nghiêm, Chân Vĩnh
Nghiêm, Chân Pháp Lĩnh, Chân Pháp Đôn, Chân Học Nghiêm,
Chân Đạt Nghiêm.
Cây
Bưởi (gia
đình) Gồm thầy Chân Pháp Trí
và sư cô Chân Thuần Nghiêm, cùng được xuất gia ngày 9
tháng 2 năm 1995 tại Làng Mai.
Cây
Cam (gia
đình) Nhóm 5 vị cùng được xuất
gia ngày 16 tháng 2 năm 1996 tại Làng Mai. Gia đình Cây
Cam gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Độ, Chân Pháp
Khai, Chân Thiều Nghiêm, Chân Phúc Nghiêm, Chân Giới
Nghiêm.
Cây
Cẩm Lai (gia
đình) Nhóm 4 vị cùng được xuất
gia ngày 26 tháng 10 năm 2003 tại Làng Mai. Gia đình Cây Cẩm
Lai gồm các sư cô: Chân Đào Nghiêm, Chân Cúc Nghiêm, Chân
Thăng Nghiêm, Chân Trân Nghiêm.
Cây
Dâu Tây (gia
đình) Nhóm 5 vị cùng được
xuất gia ngày 28 tháng 06 năm 2001 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Dâu Tây gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Lượng,
Chân Hóa Nghiêm, Chân Pháp Lực, Chân Pháp Khí, Chân Mật
Nghiêm.
Cây
Dừa (gia
đình) Nhóm 5 vị cùng được
xuất gia ngày 30 tháng 6 năm 1996 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Dừa gồm các thầy và các sư cô: Chân Thục Nghiêm,
Chân Pháp Kiều, Chân Hà Nghiêm, Chân Pháp Hiền, Chân Hỷ
Nghiêm.
Cây
Đu Đủ (gia
đình) Nhóm 10 vị cùng được xuất
gia ngày 11 tháng 2 năm 2007 tại Làng Mai. Gia đình Cây Đu
Đủ gồm các thầy và sư cô Chân Pháp Bản, Chân Pháp
Khê, Chân Pháp Quang, Chân Pháp Mãn, Chân Nhẫn Nghiêm, Chân
Pháp Khởi, Chân Pháp Địa, Chân Pháp Đồng, Chân Pháp
Chu, Chân Pháp Siêu.
Cây
Hải Đường (gia
đình) Nhóm 27 vị cùng được xuất
gia ngày 10 tháng 05 năm 2006 tại tu viện Bát Nhã. Gia đình
Cây Hải Đường gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp
Cường, Chân Pháp Tầm, Chân Nội Nghiêm, Chân Đóa Nghiêm,
Chân Tác Nghiêm, Chân Tinh Nghiêm, Chân Hiệu Nghiêm, Chân
Chính Nghiêm, Chân Thuấn Nghiêm, Chân Quốc Nghiêm, Chân
Pháp Nhiên, Chân Pháp Diệu, Chân Triển Nghiêm, Chân Pháp
Hùng, Chân Kiều Nghiêm, Chân Áo Nghiêm, Chân Pháp Hào,
Chân Nhạc Nghiêm, Chân Khả Nghiêm, Chân Phát Nghiêm, Chân
Trạm Nghiêm, Chân Pháp Chủng, Chân Họa Nghiêm, Chân Tích
Nghiêm, Chân Đán Nghiêm, Chân Pháp Phong, Chân Du Nghiêm.
Cây
Hồ Đào (gia
đình) Nhóm 18 vị cùng được xuất
gia ngày 08 tháng 02 năm 2003 tại Làng Mai. Gia đình Cây Hồ
Đào gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Ngạn, Chân
Pháp Chương, Chân Pháp Không, Chân Tùng Nghiêm, Chân Pháp
Liệu, Chân Pháp Thanh, Chân Pháp Hộ, Chân Lăng Nghiêm,
Chân Quỳnh Nghiêm, Chân Pháp Xả, Chân Pháp Tâm, Chân Pháp
Duyệt, Chân Pháp Sỹ, Chân Pháp Bi, Chân Pháp Quán, Chân
Pháp Hỷ, Chân Bách Nghiêm, Chân Hạc Nghiêm.
Cây
Hồng Giòn (gia
đình) Nhóm 49 vị cùng được
xuất gia ngày 08 tháng 01 năm 2006. Lễ truyền giới tiến
hành tại Làng Mai và truyền về tu viện Bát Nhã qua mạng
lưới Internet. Gia đình Cây Hồng Giòn gồm các thầy và
các sư cô: Chân Khôi Nghiêm, Chân Pháp Thuyên, Chân Pháp
Thượng, Chân Lĩnh Nghiêm, Chân Cảnh Nghiêm, Chân Pháp
Hoằng, Chân Pháp Thái, Chân Ích Nghiêm, Chân Pháp Cứu,
Chân Pháp Căn, Chân Pháp Sung, Chân Pháp Biện, Chân Pháp
Tri, Chân Pháp Cao, Chân Cẩn Nghiêm, Chân Lý Nghiêm, Chân
Sách Nghiêm, Chân Đan Nghiêm, Chân Đáo Nghiêm, Chân Lịch
Nghiêm, Chân Ước Nghiêm, Chân Siêu Nghiêm, Chân Báo
Nghiêm, Chân Luyện Nghiêm, Chân Pháp Thọ, Chân Pháp Bình,
Chân Tuyết Nghiêm, Chân Duyên Nghiêm, Chân Băng Nghiêm,
Chân Pháp Khuyến, Chân Pháp Tường, Chân Pháp Huấn, Chân
Pháp Xứ, Chân Pháp Giao, Chân Pháp Năng, Chân Khương
Nghiêm, Chân Khán Nghiêm, Chân Khoan Nghiêm, Chân Phương
Nghiêm, Chân Cẩm Nghiêm, Chân Hy Nghiêm, Chân Thể Nghiêm,
Chân Pháp Hưởng, Chân Pháp Hậu, Chân Pháp Hiến, Chân
Pháp Cảm, Chân Pháp Thâm, Chân Quảng Nghiêm, Chân Lộc
Nghiêm.
Cây
Hướng Dương (gia
đình)Nhóm 76 vị cùng được xuất
gia ngày 07 tháng 08 năm 2005. Lễ truyền giới tiến hành
tại Làng Mai, đồng thời truyền về tu viện Bát Nhã qua
mạng lưới Internet. Gia đình Cây Hướng Dương gồm các
thầy và các sư cô: Chân Pháp Kế, Chân Uyển Nghiêm, Chân
Pháp Chúc, Chân Hạ Nghiêm, Chân Pháp Hy, Chân Thính Nghiêm,
Chân Pháp Hoạt, Chân Mãn Nghiêm, Chân Kiện Nghiêm, Chân
Lễ Nghiêm, Chân Pháp Dược, Chân Văn Nghiêm, Chân Trình
Nghiêm, Chân Pháp Thiên, Chân Pháp Thừa, Chân Pháp Nhật,
Chân Pháp Thăng, Chân Pháp Võng, Chân Khiết Nghiêm, Chân
Pháp Xương, Chân Pháp Trung, Chân Pháp Cương, Chân Bội
Nghiêm, Chân Pháp Ngọc, Chân Pháp Triệu, Chân Pháp Tánh,
Chân Tráng Nghiêm, Chân Thức Nghiêm, Chân Pháp Lãm, Chân
Pháp Lập, Chân Trực Nghiêm, Chân Trường Nghiêm, Chân
Pháp Nhĩ, Chân Pháp Tân, Chân Pháp Ngưỡng, Chân Pháp Tư,
Chân Pháp Tiên, Chân Pháp Tú, Chân Pháp Thủy, Chân Trú
Nghiêm, Chân Tân Nghiêm, Chân Thùy Nghiêm, Chân Pháp Vĩnh,
Chân Pháp Vượng, Chân Pháp Trọng, Chân Luật Nghiêm, Chân
Pháp Nhiệm, Chân Thâm Nghiêm, Chân Pháp Cự, Chân Sắc
Nghiêm, Chân Pháp Tại, Chân Thiền Nghiêm, Chân Pháp
Nguyệt, Chân Pháp Thạch, Chân Pháp Tồn, Chân Pháp Túc,
Chân Tri Nghiêm, Chân Doãn Nghiêm, Chân Triệu Nghiêm, Chân
Pháp Thiệu, Chân Điển Nghiêm, Chân Thám Nghiêm, Chân
Thánh Nghiêm, Chân Kiến Nghiêm, Chân Quyết Nghiêm, Chân
Tông Nghiêm, Chân Tứ Nghiêm, Chân Hướng Nghiêm, Chân
Xướng Nghiêm, Chân Đồng Nghiêm, Chân Khanh Nghiêm, Chân
Triết Nghiêm, Chân Nhu Nghiêm, Chân Tuyền Nghiêm, Chân Pháp
Ngôn, Chân Pháp Xa. Cùng xuất gia với Cây Hướng Dương
còn có các thầy và sư cô: Huệ Thiện, Trí Hiếu, Mãn
Định, Mãn Nguyện, Mãn Ứng, Mãn Bi, Mãn Thành, Mãn Tựu,
Mãn Túc, Thanh Bình, Đồng Hậu, Hỷ Hải, Viên Huy, Diệu
Thu, Hương Quế.
Cây
Khế (gia
đình) Nhóm 4 vị cùng được
xuất gia ngày 26 tháng 10 năm 1996 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Khế gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Thuận,
Chân Thắng Nghiêm, Chân Tường Nghiêm, Chân Pháp Châu.
Cây
Lê (gia
đình) Nhóm 45 vị cùng được xuất
gia ngày 17 tháng 2 năm 2008. Lễ truyền giới được tiến
hành tại Làng Mai, đồng thời truyền qua mạng lưới
Internet về tu viện Bát Nhã. Gia đình Cây Lê gồm các
thầy và các sư cô: Chân Duyệt Nghiêm, Chân Pháp Linh,
Chân Hiến Nghiêm, Chân Pháp Diện, Chân Hài Nghiêm, Chân
Sỹ Nghiêm, Chân Pháp Mật, Chân Xứ Nghiêm, Chân Pháp
Nguyện, Chân Lực Nghiêm, Chân Xả Nghiêm, Chân Pháp Áo,
Chân Biểu Nghiêm, Chân Diễn Nghiêm, Chân Pháp Cứ, Chân
Cư Nghiêm, Chân Chỉnh Nghiêm, Chân Duy Nghiêm, Chân Dũng
Nghiêm, Chân Diên Nghiêm, Chân Đạm Nghiêm, Chân Giản
Nghiêm, Chân Hậu Nghiêm, Chân Pháp Ảnh, Chân Hào Nghiêm,
Chân Hiểu Nghiêm, Chân Hữu Nghiêm, Chân Kế Nghiêm, Chân
Pháp Chiêu, Chân Pháp Dũng, Chân Hoàng Nghiêm, Chân Hồi
Nghiêm, Chân Lâm Nghiêm, Chân Pháp Dự, Chân Pháp Định,
Chân Pháp Hàng, Chân Huy Nghiêm, Chân Pháp Khả, Chân Huấn
Nghiêm, Chân Pháp Kim, Chân Pháp Khương, Chân Hiện Nghiêm,
Chân Pháp Hoan, Chân Pháp Hương, Chân Pháp Lợi, Chân Pháp
Lộc.
Cây
Mãng Cầu (gia
đình) Nhóm 5 vị cùng được
xuất gia ngày 17 tháng 11 năm 2004 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Mãng Cầu gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp An,
Chân Tư Nghiêm, Chân Kỳ Nghiêm, Chân Pháp Tuấn, Chân Trí
Nghiêm.
Cây
Mộc Lan (gia
đình) Nhóm 4 vị cùng được
xuất gia ngày 23 tháng 03 năm 1999 tại Làng Mai, gồm các
thầy và các sư cô: Chân Pháp Hưng, Chân Lệ Nghiêm, Chân
Pháp Bảo, Chân Hòa Nghiêm.
Cây
Ngô Đồng (gia
đình)
Nhóm 27 vị cùng được xuất gia ngày 08 tháng 06 năm 2008
tại Tu viện Bát Nhã. Lễ truyền giới được tổ chức tại tu viện Bát Nhã trong chuyến về Việt Nam lần thứ 3 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Gia đình Cây Ngô
Đồng gồm các thầy và các sư cô: Chân Vĩ Nghiêm, Chân
Cao Nghiêm, Chân Pháp Lễ, Chân Pháp Kính, Chân Phong Nghiêm,
Chân Pháp Đạo, Chân Kiên Nghiêm, Chân Kiệt Nghiêm, Chân
Pháp Đương, Chân Giáo Nghiêm, Chân Vượng Nghiêm, Chân
Thiện Nghiêm, Chân Ý Nghiêm, Chân Pháp Điển, Chân Ưu
Nghiêm, Chân Trinh Nghiêm, Chân Xương Nghiêm, Chân Pháp
Chất, Chân Vũ Nghiêm, Chân Pháp Chuẩn, Chân Pháp Trực,
Chân Pháp Chấn, Chân Tài Nghiêm, Chân Nhất Nghiêm, Chân
Pháp Hồi, Chân Pháp Hiểu, Chân Pháp Diên. Cùng thọ giới
với Cây Ngô Đồng còn có các thầy Thích Mãn Đạt,
Thích Mãn Lạc, Thích Mãn Hữu, Thích Mãn Trí, Thích Mãn
Hưng và Thích Mãn Tạng.
Cây Olive (gia đình) Nhóm 5 vị cùng được xuất gia ngày 30 tháng 08 năm 2004 tại Làng Mai. Gia đình Cây Olive gồm các thầy và các sư cô: Chân Song Nghiêm, Chân Pháp Sinh, Chân Pháp Tuyên, Chân Như Nghiêm, Chân Triêu Nghiêm.
Cây Olive (gia đình) Nhóm 5 vị cùng được xuất gia ngày 30 tháng 08 năm 2004 tại Làng Mai. Gia đình Cây Olive gồm các thầy và các sư cô: Chân Song Nghiêm, Chân Pháp Sinh, Chân Pháp Tuyên, Chân Như Nghiêm, Chân Triêu Nghiêm.
Cây
Phong (gia
đình) Nhóm 5 vị cùng được
xuất gia ngày 09 tháng 08 năm 1998 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Phong gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Viên,
Chân Tố Nghiêm, Chân Tú Nghiêm, Chân Xuân Nghiêm, Chân Tín
Nghiêm.
Cây
Phượng (gia
đình) Nhóm 4 vị cùng được
xuất gia ngày 08 tháng 11 năm 1997 tại Key West tiểu bang
Florida nước Mỹ. Gia đình Cây Phượng gồm các thầy và
các sư cô: Chân Pháp Ân, Chân Hằng Nghiêm, Chân Pháp Lạc,
Chân Uy Nghiêm.
Cây
Sồi (gia
đình) Nhóm 5 vị cùng được
xuất gia ngày 3 tháng 8 năm 1994 tại Làng Mai. Gia đình cây
Sồi gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Niệm, Chân
Giải Nghiêm, Chân Pháp Cảnh, Chân Pháp Trú, Chân Khai
Nghiêm.
Cây
Quế (gia
đình) Nhóm 9 vị cùng được xuất
gia ngày 13 tháng 12 năm 2003 tại Làng Mai. Gia đình Cây Quế
gồm các thầy và các sư cô: Chân Đắc Nghiêm, Chân Pháp
Vũ, Chân Pháp Trì, Chân Thư Nghiêm, Chân Pháp Lưu, Chân
Pháp Tụ, Chân Pháp Cầu, Chân Uyên Nghiêm, Chân Phùng
Nghiêm.
Cây
Quỳnh Hương (gia
đình) Gồm 2 sư cô Chân Hoa Nghiêm và
Chân Từ Nghiêm cùng được xuất gia ngày 26 tháng 1 năm
1991 tại Làng Mai.
Cây
Sen Trắng (gia
đình) Nhóm
42 vị cùng được xuất gia ngày 20 tháng 09 năm 2008. Lễ
truyền giới tiến hành tại thiền đường Nước Tĩnh –
chùa Pháp Vân và được truyền qua mạng lưới Internet về
chùa Từ Hiếu. Gia đình Cây Sen Trắng gồm các thầy và
các sư cô: Chân Bình Nghiêm, Chân An Nghiêm, Chân Pháp Đàm,
Chân Pháp Giới, Chân Pháp Liên, Chân Pháp Ẩn, Chân Chất
Nghiêm, Chân Pháp Âu, Chân Chiêu Nghiêm, Chân Phú Nghiêm,
Chân Nhị Nghiêm, Chân Sứ Nghiêm, Chân Pháp Ánh, Chân
Chuẩn Nghiêm, Chân Căn Nghiêm, Chân Thân Nghiêm, Chân Chức
Nghiêm, Chân Chuyên Nghiêm, Chân Pháp Bối, Chân Pháp Xúc,
Chân Pháp Côn, Chân Pháp Cú, Chân Chứng Nghiêm, Chân Diễm
Nghiêm, Chân Diện Nghiêm, Chân Dương Nghiêm, Chân Điều
Nghiêm, Chân Pháp Cửu, Chân Pháp Chỉnh, Chân Pháp Biểu,
Chân Dự Nghiêm, Chân Pháp Chúng, Chân Đế Nghiêm, Chân
Pháp Doanh, Chân Địa Nghiêm, Chân Đảm Nghiêm, Chân Pháp
Du, Chân Pháp Đại, Chân Pháp Đảo, Chân Hoan Nghiêm, Chân
Đôn Nghiêm, Chân Pháp Đỉnh.
Cây Sen Vàng (gia đình) Nhóm 46 vị cùng được xuất gia ngày 08 tháng 03 năm 2009. Lễ truyền giới tiến hành tại Làng Mai và được truyền qua mạng lưới Internet về chùa Từ Hiếu. Gia đình Cây Sen Vàng gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Thuật, Chân Thúc Nghiêm, Chân Pháp Luyện, Chân Pháp Lân, Chân Tự Nghiêm, Chân Pháp Khải, Chân Trì Nghiêm, Chân Pháp Thi, Chân Sinh Nghiêm, Chân Hoàn Nghiêm, Chân Trượng Nghiêm, Chân Cương Nghiêm, Chân Pháp Tín, Chân Pháp Hiệu, Chân Pháp Doãn, Chân Thưởng Nghiêm, Chân Công Nghiêm, Chân Trợ Nghiêm, Chân Pháp Lịch, Chân Pháp Đối, Chân Pháp Mạch, Chân Ân Nghiêm, Chân Nguyện Nghiêm, Chân Trừng Nghiêm, Chân Pháp Nghị, Chân Cứu Nghiêm, Chân Pháp Hiệp, Chân Thiệp Nghiêm, Chân Đương Nghiêm, Chân Biện Nghiêm, Chân Pháp Mẫn, Chân Pháp Thệ, Chân Pháp Kỳ, Chân Thật Nghiêm, Chân Pháp Nhạc, Chân Thoát Nghiêm, Chân Pháp Nghiệm, Chân Pháp Mặc, Chân Pháp Luận, Chân Thảo Nghiêm, Chân Pháp Mục, Chân Pháp Dĩnh, Chân Thương Nghiêm, Chân Pháp Nhi, Chân Pháp Liêm, Chân Pháp Triển.
Cây Sung (gia đình) Nhóm 7 vị cùng được xuất gia ngày 26 tháng 10 năm 1998 tại Làng Mai. Gia đình Cây Sung gồm các thầy và các sư cô: Chân Y Nghiêm, Chân Pháp Minh, Chân Anh Nghiêm, Chân Thường Nghiêm, Chân Lương Nghiêm, Chân Pháp Ngộ, Chân Quang Nghiêm.
Cây Sen Vàng (gia đình) Nhóm 46 vị cùng được xuất gia ngày 08 tháng 03 năm 2009. Lễ truyền giới tiến hành tại Làng Mai và được truyền qua mạng lưới Internet về chùa Từ Hiếu. Gia đình Cây Sen Vàng gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Thuật, Chân Thúc Nghiêm, Chân Pháp Luyện, Chân Pháp Lân, Chân Tự Nghiêm, Chân Pháp Khải, Chân Trì Nghiêm, Chân Pháp Thi, Chân Sinh Nghiêm, Chân Hoàn Nghiêm, Chân Trượng Nghiêm, Chân Cương Nghiêm, Chân Pháp Tín, Chân Pháp Hiệu, Chân Pháp Doãn, Chân Thưởng Nghiêm, Chân Công Nghiêm, Chân Trợ Nghiêm, Chân Pháp Lịch, Chân Pháp Đối, Chân Pháp Mạch, Chân Ân Nghiêm, Chân Nguyện Nghiêm, Chân Trừng Nghiêm, Chân Pháp Nghị, Chân Cứu Nghiêm, Chân Pháp Hiệp, Chân Thiệp Nghiêm, Chân Đương Nghiêm, Chân Biện Nghiêm, Chân Pháp Mẫn, Chân Pháp Thệ, Chân Pháp Kỳ, Chân Thật Nghiêm, Chân Pháp Nhạc, Chân Thoát Nghiêm, Chân Pháp Nghiệm, Chân Pháp Mặc, Chân Pháp Luận, Chân Thảo Nghiêm, Chân Pháp Mục, Chân Pháp Dĩnh, Chân Thương Nghiêm, Chân Pháp Nhi, Chân Pháp Liêm, Chân Pháp Triển.
Cây Sung (gia đình) Nhóm 7 vị cùng được xuất gia ngày 26 tháng 10 năm 1998 tại Làng Mai. Gia đình Cây Sung gồm các thầy và các sư cô: Chân Y Nghiêm, Chân Pháp Minh, Chân Anh Nghiêm, Chân Thường Nghiêm, Chân Lương Nghiêm, Chân Pháp Ngộ, Chân Quang Nghiêm.
Cây
Táo (gia
đình) Nhóm 9 vị cùng được
xuất gia ngày 04 tháng 02 năm 1998 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Táo gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Khâm, Chân
Linh Nghiêm, Chân Bi Nghiêm, Chân Pháp Dung, Chân Khánh
Nghiêm, Chân Huyền Nghiêm, Chân Hân Nghiêm, Chân Pháp
Nguyên, Chân Kính Nghiêm.
Cây
Thốt Nốt (gia
đình) Nhóm 21 vị cùng được
xuất gia ngày 07 tháng 02 năm 2002 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Thốt Nốt gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp
Khôi, Chân Cơ Nghiêm, Chân Doanh Nghiêm, Chân Cần Nghiêm,
Chân Chỉ Nghiêm, Chân Pháp Điền, Chân Thịnh Nghiêm, Chân
Pháp Luân, Chân Pháp Nhẫn, Chân Cung Nghiêm, Chân Thi
Nghiêm, Chân Pháp Thân, Chân Thần Nghiêm, Chân Pháp Tự,
Chân Pháp Môn, Chân Pháp Hiển, Chân Việt Nghiêm, Chân Nho
Nghiêm, Chân Pháp Chiếu, Chân Đàn Nghiêm, Chân Pháp Hữu.
Cây
Trà My (gia
đình) Nhóm 9 vị cùng được
xuất gia ngày 12 tháng 02 năm 2001 tại Làng Mai. Gia đình
Cây Trà My gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Chuyên,
Chân Pháp Vinh, Chân Túc Nghiêm, Chân Pháp Trạch, Chân Quý
Nghiêm, Chân Pháp Huy, Chân Cát Nghiêm, Chân Hành Nghiêm,
Chân Pháp Duệ.
Cây
Trầm Hương (gia
đình) Nhóm 77 vị cùng được xuất
gia ngày 3 tháng 3 năm 2007 tại tu viện Bát Nhã. Gia đình
Cây Trầm Hương gồm các thầy và các sư cô: Chân Chiếu
Nghiêm, Chân Pháp Cẩn, Chân Pháp Công, Chân Quế Nghiêm,
Chân Phẩm Nghiêm, Chân Pháp Cử, Chân Pháp Chí, Chân Pháp
Chứng, Chân Chương Nghiêm, Chân Minh Nghiêm, Chân Pháp
Diễn, Chân Pháp Dương, Chân Quán Nghiêm, Chân Dụng
Nghiêm, Chân Nghĩa Nghiêm, Chân Pháp Duy, Chân Nhãn Nghiêm,
Chân Tiên Nghiêm, Chân Hiển Nghiêm, Chân Tuấn Nghiêm, Chân
Khoa Nghiêm, Chân Thúy Nghiêm, Chân Tuyển Nghiêm, Chân Đài
Nghiêm, Chân Thuyết Nghiêm, Chân Pháp Đài, Chân Tĩnh
Nghiêm, Chân Thượng Nghiêm, Chân Hưng Nghiêm, Chân Viên
Nghiêm, Chân Nhuận Nghiêm, Chân Pháp Đế, Chân Pháp Điều,
Chân Pháp Đường, Chân Pháp Giải, Chân Xứng Nghiêm, Chân
Hải Nghiêm, Chân Tựu Nghiêm, Chân Lạc Nghiêm, Chân Pháp
Hảo, Chân Pháp Hoàn, Chân Vinh Nghiêm, Chân Hoằng Nghiêm,
Chân Tạng Nghiêm, Chân Liên Nghiêm, Chân Lập Nghiêm, Chân
Truyền Nghiêm, Chân Chung Nghiêm, Chân Huân Nghiêm, Chân Lưu
Nghiêm, Chân Pháp Hiên, Chân Pháp Hoạch, Chân Khuyến
Nghiêm, Chân Liệu Nghiêm, Chân Toàn Nghiêm, Chân Đăng
Nghiêm, Chân Lãm Nghiêm, Chân Thuyên Nghiêm, Chân Huệ
Nghiêm, Chân Pháp Hiện, Chân Lữ Nghiêm, Chân Nhiếp
Nghiêm, Chân Ngộ Nghiêm, Chân Chúc Nghiêm, Chân Ngọc
Nghiêm, Chân Luận Nghiêm, Chân Pháp Hợp, Chân Phượng
Nghiêm, Chân Hoạt Nghiêm, Chân Tiếp Nghiêm, Chân Năng
Nghiêm, Chân Nguyệt Nghiêm, Chân Pháp Khoa, Chân Trọng
Nghiêm, Chân Tiến Nghiêm, Chân Toại Nghiêm, Chân Tùy
Nghiêm. Cùng xuất gia với Cây Trầm Hương còn có các
thầy và sư cô: Mãn Hướng, Mãn Luân, Mãn Hiện, Mãn
Thức, Khánh Đạt, Đồng Phương, Quảng Biên, Nhuận Viên,
Đồng Minh, Nhuận Tính, Quảng Hiện, Diệu Âm.
Cây
Trúc (gia
đình) Gồm các thầy Chân Pháp
Thông, Chân Pháp Hòa, Chân Pháp Nghĩa cùng được xuất
gia ngày 12 tháng 5 năm 1998 tại Làng Mai.
Cây
Tùng (gia
đình) Nhóm 4 vị cùng được
xuất gia ngày 07 tháng 2 năm 1997 tại Làng Mai, gồm các
thầy: Chân Pháp Sơn, Chân Pháp Kiên, Chân Pháp Hải, Chân
Pháp Hội.
Cây
Vô Ưu (gia
đình) Nhóm 13 vị cùng được xuất
gia ngày 07 tháng 07 năm 2003. Lễ truyền giới được tiến
hành tại Làng Mai, đồng thời truyền qua mạng lưới
Internet về chùa Đình Quán - Hà Nội. Gia đình Cây Vô Ưu
gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Đệ, Chân Pháp
Tập, Chân Lan Nghiêm, Chân Pháp Quang, Chân Thái Nghiêm,
Chân Pháp Tịnh, Chân Khải Nghiêm, Chân Pháp Ngữ, Chân
Khuê Nghiêm, Chân Pháp Lâm, Chân Pháp Toàn, Chân Bối
Nghiêm, Chân Pháp Huân.
Cây
Vú Sữa (gia
đình) Nhóm 19 vị cùng được xuất
gia ngày 01 tháng 02 năm 2005 tại Việt Nam, trong khóa tu
tăng ni tại chùa Hoằng Pháp, Hóc môn. Gia đình Cây Vú
Sữa gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Nhã, Chân
Sùng Nghiêm, Chân Pháp Toại, Chân Tánh Nghiêm, Chân Thẩm
Nghiêm, Chân Phổ Nghiêm, Chân Pháp Ninh, Chân Pháp Chung,
Chân Mặc Nghiêm, Chân Ứng Nghiêm, Chân Tập Nghiêm, Chân
Giai Nghiêm, Chân Chí Nghiêm, Chân Mỹ Nghiêm, Chân Dung
Nghiêm, Chân Tôn Nghiêm, Chân Duệ Nghiêm, Chân Pháp Anh,
Chân Thao Nghiêm.
Cây
Xoài (gia
đình) Gồm sư cô Chân Trung
Nghiêm, Chân Nhã Nghiêm và thầy Chân Pháp Âm cùng được
xuất gia ngày 27 tháng 7 năm 1999 tại Làng Mai.
Cây
Xoan (gia
đình) Nhóm 12 vị cùng được xuất
gia ngày 26 tháng 05 năm 2002 tại Làng Mai. Gia đình Cây
Xoan gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Lộ, Chân Gia
Nghiêm, Chân Liễu Nghiêm, Chân Hồng Nghiêm, Chân Trúc
Nghiêm, Chân Pháp Lai, Chân Hiền Nghiêm, Chân Thanh Nghiêm,
Chân Pháp Uyển, Chân Pháp Hành, Chân Trang Nghiêm, Chân Mai
Nghiêm.
Cậu
Đồng (sách)
Một phóng tác kịch của Thầy Làng Mai từ vở hài kịch
Le Tartuffe của Molière, do nhà Sen Vàng xuất bản năm
1958. Kịch này đã được Gia Đình Phật Tử Cầu Đất
trình diễn mùa Xuân năm 1959.
Chánh
niệm (thuật
ngữ, phép tu) Năng lượng giúp
ta có mặt thật sự trong giây phút hiện tại và nhận
diện được những gì đang xảy ra tại đây trong giây
phút ấy. Năng lượng này nếu được duy trì sẽ làm
phát sinh ra năng lượng chuyên chú, tập trung của tâm ý
vào một đối tượng được lựa chọn, gọi là chánh
định. Năng lượng chánh định nếu đủ hùng hậu sẽ
giúp ta khám phá được thực chất của đối tượng kia,
gọi là tuệ. Niệm, định và tuệ là ba năng lượng được
chế tác trong khi tu tập. Chánh niệm được chế tác
không những trong thời gian thực tập thiền ngồi, thiền
đi, mà còn được chế tác trong bất cứ sinh hoạt nào
của đời sống hàng ngày như tưới rau, rửa bát, giặt
áo, nấu cơm, lái xe, lau nhà, ăn cơm, uống nước, làm
việc, trong cả bốn tư thế đi, đứng, nằm và ngồi. Có
năng lượng chánh niệm ta thật sự có mặt trong mỗi
giây phút của đời sống hàng ngày và sống được sâu
sắc những giây phút ấy. Chánh niệm giúp ta tiếp xúc
được với những gì mầu nhiệm trong ta và xung quanh ta,
những gì có khả năng nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển
hóa. Chánh niệm cũng giúp ta nhận diện và ôm ấp những
niềm đau trong ta, để ta có thể làm vơi nhẹ chúng, và
cùng với chánh định, giúp ta nhìn sâu vào thực chất
của niềm đau để thấy được gốc nguồn của nó và
do đó chuyển hóa được niềm đau. Chánh niệm là trái
tim của thiền tập. Chữ Phạn là Smrti, chữ Pali là
Sati, dịch sang tiếng Pháp là la pleine conscience,
tiếng Anh là mindfulness, tiếng Đức là
achksamkeit. Kinh căn bản dạy về chánh niệm là kinh
Niệm Xứ, Satipatthana sutta.
Chanting
from the Heart (sách) Một cuốn sách gồm tất cả
các kinh và nghi thức căn bản theo truyền thống Làng Mai
bằng tiếng Anh, tương đương với sách Nghi thức Tụng
niệm Đại toàn tiếng Việt. Nhà xuất bản Parallax ấn
hành tại Hoa Kỳ năm 2006.
Chắp
Tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện
(sách)
Một tập thơ của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối, Sài Gòn
ấn hành năm 1965, họa sĩ Hiếu Đệ trình bày bìa. Tập
thơ này khi đưa lên kiểm duyệt đã bị bỏ chỉ còn hai
bài, sau đó được in chui không có giấy phép. Tập thơ
có nhiều bài được gọi là thơ phản chiến (anti-war
poetry) vì diễn tả được nỗi khổ đau của chiến tranh
và ước vọng hòa bình của dân chúng, nên đã bị cảnh
sát của chế độ Sài Gòn tịch thu
Chắp
tay trong chánh niệm (phép
tu) Gặp nhau trong khuôn viên
Làng Mai, ta chắp tay xá nhau trong chánh niệm. Chắp
hai tay lên thành búp sen, ta thầm niệm “Sen búp xin
tặng người”. Cúi xuống trước người đối
diện, ta thầm niệm “Một vị Bụt tương lai”. Ta
làm động tác này với tất cả sự cung kính, dù
là với một em bé, bởi vì em bé cũng có tính
Bụt trong tâm. Chắp tay và xá như thế, ta tiếp xúc
được với Phật tính trong ta và trong người đối
diện, đồng thời ta cũng giúp người ấy làm như
thế. Đây không phải là lễ nghi ước lệ mà là
một sự thực tập.
Chân
An Bình (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Lâm Xuân Thời, quốc tịch NaUy. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2009 trong đại giới đàn Mùa Sen Mới
với bài kệ truyền đăng như sau: Tâm
an thế giới sẽ bình. Núi xanh từ buổi đăng trình vẫn
xanh. Tinh chuyên nguyện mãn công thành. Về nơi suối ngọt
cây lành năm xưa.
Chân
An Hải (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, tên
Ger Levert. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2008 trong
đại giới đàn Thanh Lương Địa với bài kệ truyền
đăng như sau: Trăng rằm mỉm nụ bình an. Hải
triều vọng tiếng hân hoan đón mời. Xuân về liễu biếc
hoa tươi. Biển xanh sóng lặng ra khơi thuyền từ.
Chân
An Hành (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ
nữ, tên Sue Bridge, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã
Tới với bài kệ truyền đăng như sau: An
nhiên trên nẻo thiền Hành. Mây hồng mời gọi trời xanh
đón chào. Đêm nay mở hội ngàn sao. Trăng đi theo nước
cùng vào đại dương.
Chân
An Nguyên (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ
nữ, tên Marjolijn Van Leeuwen, người Hòa Lan. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về
Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau: An
vui tìm lại uyên Nguyên. Trăng treo lối cũ về miền thảnh
thơi. Ngựa ăn cỏ tuyết trên đồi. Mài gươm bên suối,
tiếng cười âm vang.
Chân
An Niệm (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ
nữ, tên Ernestine Enomoto, người Mỹ. Được Thầy Làng
Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã
Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Bước
chân thuần nhất trong An Niệm. Đầu ngõ tan sương nguyệt
sáng lòa. Túc trái tiền oan rơi rụng hết. Một vùng mây
nước đẹp bao la.
Chân
An Quang (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Rochelle Griffin, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với
bài kệ truyền đăng như sau: An
trú nơi hiện pháp. Quang minh chiếu đại thiên. Lắng nghe
đời than thở. Từ ái tỏa chân thiền.
Chân
An Thừa (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Jan Boswijk, người Hòa Lan. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với bài kệ
truyền đăng như sau: Bước
đi từng bước chân An lạc. Thượng thừa mở lối tới
đài sen. Khúc hát mùa xuân vang bất tuyệt. Hào quang đại
địa chiếu tam thiên.
Chân
An Trú
(tên
gọi) Một
vị giáo thọ cư sĩ nữ, tên Francoise Pottier. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 2009 trong đại giới đàn Mùa
Sen Mới với bài kệ truyền đăng như sau: Bản môn chốn
ấy an lành. Trú trong hiện pháp anh linh tuyệt vời. Nhìn
ra thiên địa tinh khôi. Vén màn đêm, thắp sáng trời
tương lai.
Chân
Ấn Đức (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Charles Al Lingo, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2008 trong đại giới đàn Thanh Lương Địa
với bài kệ truyền đăng như sau: Diệu
trì hiện nguyệt ấn. Đức cảnh lộ chân nhân. Thù đồ
quy nhất điểm. Giới định dĩ nghiêm thân.
Chân
Bản Nguyên (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Peggy Rowe, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Bản
môn nở giữa lòng sen thắm. Nguyên vẹn trăng thề trải
mấy thu. Tuyết chở sương che tường giới định. Hoa đào
năm ngoái thắm như xưa.
Chân
Bảo (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Reed Caitriona, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
tăng ở khắp chốn. Bảo sát tại trong lòng. Nụ cười
vừa nhẹ chớm. Thanh thoát khoảng trời trong.
Chân
Bảo Bi (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Seija Mauro, người Phần Lan. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2008 trong đại giới đàn Thanh Lương Địa
với bài kệ truyền đăng như sau: Tìm
thấy bảo châu trong vạt áo. Trái tim bi nguyện vẫn còn
nguyên. Sáu chiếc tay chèo theo nhịp sóng. Đèn tâm tiếp
nối lửa chân truyền
Chân
Bảo Châu (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Patricia Hunt-Perry, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới
với bài kệ truyền đăng như sau: Bảo
kiếm trao tay một sáng thu. Châu về hợp phố thỏa nguyền
xưa. Rừng tía bụi hồng nay đã một. Giang đầu liễu
gọi có oanh thưa.
Chân
Bảo Địa (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Shalom, người Tân Tây Lan. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ
truyền đăng như sau: Hạt
giống gieo trồng nơi Bảo Địa. Đây rồi cơ hội thấm
mưa Xuân. Ngày đêm an trú trong địa xúc. Khắp miền hoa
nở sáng chân tâm.
Chân
Bảo Niệm (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ
nữ, tên Cheryll Ann Maples, người Mỹ. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 2008 trong đại giới đàn Thanh
Lương Địa với bài kệ truyền đăng như sau: Tam
bảo nương vào chuyên nhất niệm. Hành trì giới định
đạt tâm an. Vườn xưa đào lý đua nhau nở. Dấu chân
đại sĩ vẫn chưa mòn.
Chân
Bảo Thể (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Ilona Schmied, người Đức. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với bài kệ
truyền đăng như sau: Lên
chơi ngọn bảo sơn. Tìm ra nguồn chân Thể. Hai tay ôm mây
hồng. Hát ca mừng nhân thế.
Chân
Bảo Tích (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
pháp danh Tâm Cao Phong, tên Thân Trọng Nguyên. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về
Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Mỗi
bước đưa về kho Bảo Tích. Nương hơi thở nhẹ tới
Lam điền. Sáng nay nghe tiếng hoàng oanh gọi. Thông rung
trống kệ, hải triều lên.
Chân
Bi Nghiêm (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Johnson Wendy, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ
truyền đăng như sau:
Chân tính luôn từ ái. Bi Nghiêm hạnh nguyện đầu. Chốn
kỳ viên chăm sóc. Xanh tốt vạn đời sau.
Chân
Bi Tu (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ
nữ, tên Eevi Elizabeth Beck, người Na Uy. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 2008 trong đại giới đàn Thanh
Lương Địa với bài kệ truyền đăng như sau: Pháp
môn hé cánh từ bi. Công phu tu luyện độ trì nhân gian.
Giới hương tỏa ngát hoa Đàm. Mây bay đầu ngõ, sương
tan cuối trời.
Chân
Bồ Đề (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Văn Minh. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
tâm gốc rễ vẫn tài bồi. Bóng mát bồ đề rợp khắp
nơi. Then cửa nhiệm màu tay nắm giữ. Nhìn trong hiện
pháp thấy tương lai.
Chân
Cảm Ứng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Karl Riedl, người Đức. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài
kệ truyền đăng như sau:
Chân tu tạo chân lực. Cảm Ứng xuất vạn năng. Trí bi
tráp lưỡng dực. Bằng trình siêu vạn tầm.
Chân
Cơ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Trịnh Đình Tấn. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1990 với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
ý ngàn đời vẫn sáng trong. Cơ duyên đốn ngộ ở ngay
lòng. Một thấy trời cao lồng lộng sáng. Tha hồ mây bạc
cứ thong dong.
Chân
Diệu Từ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Helga Riedl, người Đức. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài
kệ truyền đăng như sau: Chân
niệm thường an trú. Diệu Từ là nguồn vui. Hạt xuân
gieo bất tận. Hoa nở độ muôn người.
Chân
Diệu Ý (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Silvia Lombardi. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2006 trong đại giới đàn Văn Lang với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
như tìm diệu ý. Lắng nghe tiếng hải triều. Dựng xây
tình huynh đệ. Đồi thế kỷ cùng leo.
Chân
Đắc (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Kotler Arnold, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1990 với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
tông không Bắc cũng không Nam. Đắc pháp truyền tâm thánh
chuyển phàm. Thông điệp từ bi về vạn nẻo. Nối liền
Tịnh Độ với nhân gian.
Chân
Đại Âm (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Larry Ward, người Mỹ-Phi. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Đại
cổ vừa rung tiếng sấm ran. Âm thanh chấn động ánh
trăng vàng. Bốn phương chiếu dụng tâm thuần nhất.
Tiếng cầm tiếng sắt vẫn hiên ngang.
Chân
Đại Đồng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Manfred Folkers, người Đức. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với
bài kệ truyền đăng như sau: Đại
địa trình kiến giải. Đồng tâm mạch sống dâng. Bảo
tháp Như Lai hiện. Năm sắc chói tường vân.
Chân
Đại Kiều (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Lisi Hà Vĩnh. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với bài kệ
truyền đăng như sau: Đại
nghĩa xưa nay vững một lòng. Vượt muôn Kiều lộ bước
thong dong. Hành vân lưu thủy chân thường tại. Hát khúc
vô sinh mỗi sáng hồng.
Chân
Đại Tập (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Murray Corke. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với bài kệ truyền
đăng như sau: Đại
hành vừa chuyển pháp luân. Năm châu vân tập xa gần ngợi
khen. Thiền ca một khúc tấu lên. Địa cầu chấn động,
chư thiên chúc mừng.
Chân
Đại Tuệ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Hà Vĩnh Thọ. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với bài kệ
truyền đăng như sau: Chí
lớn nam nhi hướng đại đồng. Tài bồi Tuệ nghiệp rạng
tông phong. Lòng đất hạt thương lên tiếng gọi. Rực rỡ
hoa đào đón gió đông.
Chân
Đại Ứng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Jerry Brazza, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Đại
bi suối ấy đã lên đường. Ứng hiện muôn ngày ức hóa
thân. Dạt dào thấm nhuận cơn mưa pháp. Đất lành gieo
mãi hạt yêu thương.
Chân
Đại Ý (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Stefano Carboni, người Ý. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2006 trong đại giới đàn Văn Lang với bài kệ
truyền đăng như sau: Huyền
môn trình đại ý. Diệu pháp đã lên đường. Đông Tây
vốn là một. Mở lối Hiểu và Thương.
Chân
Đăng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Kiera Eileen, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1990 với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
tính nào đâu có bớt thêm. Đăng tâm nối sáng lửa chân
truyền. Biển Đông một sáng bừng trang sử. Mặt trời
trí tuệ chiếu tam thiên.
Chân
Đạo (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Jean-Pierre Maradan. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
tướng vốn là vô tướng. Đạo mầu trăng dạo thái
không. Chim hót vọng từ đỉnh núi. Thông reo pháp diễn
diệu âm.
Chân
Đạo Hành (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
pháp danh Tâm Vô Tướng, tên Hoàng Khôi, người Việt Nam
quốc tịch Úc. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Đạo
xưa tìm thấy nẻo vô Hành. Thanh khí tương tầm dặm liễu
xanh. Hoa đào suối cũ còn nguyên đó. Ngửng đầu bắt
gặp ánh trăng thanh.
Chân
Đạo Trị (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia
nam, tên George Giroud. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ
truyền đăng như sau: Đạo
tâm khơi mở nguồn an lạc. Trị thế không ngoài hiểu
với thương. Tiếp nối đèn tâm truyền pháp lạc. Soi
chiếu ngày mai lối tỏ tường.
Chân
Đạt (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Hữu Chí, người Việt Nam quốc tịch Úc. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1994 trong đại giới đàn
Hương Tích với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
tính luôn có mặt. Đạt ngộ trong tầm tay. Ngồi yên vững
như núi. Ngoài kia trăng sáng đầy.
Chân
Định Trú (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Joseph Emet, người Canada. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với
bài kệ truyền đăng như sau: Về
đây ổn Định tâm ta. Về đây an Trú một nhà tăng thân.
Đếm chi số cát sông Hằng. Triều âm đã động, chim
bằng tung mây.
Chân
Đức (tên
gọi). Xem Đức
Nghiêm
Chân
Đức Âm (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Lê Phương Chi. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Hãy
lắng lòng nghe khúc Đức Âm. Hải triều xô vỡ khối
trần tâm. Bụi hồng khép lại sau khung cửa. Rừng tía
đây rồi hiện pháp thân. Xem thêm Song Nghiêm.
Chân
Đức Nhãn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, tên
Chung Minh Fei. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003
trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền
đăng như sau: Đức
hậu đương xuân phương thảo thịnh. Nhãn minh vô xứ bất
tri huyền. Dạ quang nguyệt sắc vô nhân tảo. Nhất kiến
đào hoa sự lý thuyên.
Chân
Đức Từ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Brendan Sillifant, người Tân Tây Lan. Được Thầy Làng
Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã
Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Non
cao lập Đức càng cao. Biển sâu Từ ái không đào cũng
sâu. Phút giây hiện tại nhiệm màu. Uổng công tìm kiếm
nơi đâu nhọc lòng?
Chân
Giác Hoa (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Jane Coates Worth. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với bài kệ truyền
đăng như sau: Giác
Hoa nở khắp mọi miền. Thênh thang gió đẩy hương thiền
xa bay. Tăng thân tụ hội đông đầy. Phật tâm nam bắc
xưa nay vẫn đồng.
Chân
Giác Thọ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Bettina Romhardt, người Đức. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với
bài kệ truyền đăng như sau: Giác
Thọ dâng hoa trái. Gốc rễ càng vững bền. Dòng thiêng
còn tiếp nối. Khí hùng lực vô biên.
Chân
Giác Xứ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Leslie Rawls, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2009 trong đại giới đàn Mùa Sen Mới với bài
kệ truyền đăng như sau:
Giác tính thời thời năng thật trú. Tâm tư xứ xứ đắc
an bình. Vô đắc môn khai chân tự tại. Bất lao khổ tụng
liễu tâm kinh.
Chân
Giải Thoát (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Schaibly Robert, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
đạo từ tâm tỏ. Giải Thoát cảnh hiện tiền. Sóng sinh
tử vừa lặn. Trăng sáng rọi ngoài hiên.
Chân
Giới Hương (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Annabelle Zinser, người Đức. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với
bài kệ truyền đăng như sau: Thiền
duyệt tâm thành đốt Giới Hương. Lửa hồng bếp cũ ấm
hơi sương. Hồng chung ngân rã trần gian mộng. Muôn hướng
về chung một nẻo đường.
Chân
Hành Trì (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Travis Masch, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với
bài kệ truyền đăng như sau: Vững
tin nơi pháp Hành Trì. Nước non đá tạc vàng ghi có ngày.
Hỏi thăm những nước cùng mây. Lời lời châu ngọc giải
bày thế gian.
Chân
Hảo (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, tên
Nguyễn Đào Như Tuyền. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
và tục hai đế. Hảo tướng thường viên dung. Từng bước
trên đất thật. Pháp giới sáng vô cùng.
Chân
Hiện Quán (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Trung Quân. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ truyền
đăng như sau: Phút
giây Hiện tại vừa tham Quán. Trăng thu đã dọi sáng bên
thềm. Bài hát bản môn tuôn bất tuyệt. Vườn xưa đào
lý nở trang nghiêm.
Chân
Hòa (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Eveline Beumkes. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
tăng là vùng nương náu. Hòa bình tỏa rạng mai sau. Đại
bàng xòe hai cánh rộng. Bóng che mát quả địa cầu.
Chân
Học (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Martin Pitt. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1994
trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền đăng
như sau: Chân
pháp duy thân chứng. Học đạo cần nhất tâm. Rừng thiền
muôn chim hót. Hoa nở hiện chân nhân.
Chân
Hộ Tăng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Pritam Singh, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ
truyền đăng như sau: Nguyền
xưa bảo Hộ Tăng thân. Trời xưa đã sáng hương trầm
nhẹ bay. Biển xưa chẳng có vơi đầy. Vườn xưa xanh tốt
hạt cây nảy mầm.
Chân
Hội (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Tấn Hồng, người Việt Nam quốc tịch Hoa Kỳ.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1990 với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
lý trao truyền qua ngõ tâm. Hội giải siêu nhiên vượt dị
đồng. Hạt giống bồ đề gieo rải khắp. Ngại gì hai
nẻo sắc và không.
Chân
Huy (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Trần Minh Dũng. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
tâm một biểu lộ. Pháp giới sẽ quang Huy. Tuệ nhật
chiếu thật địa. Thong dong từng bước đi.
Chân
Huyền (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Hà Dương Đỗ Quyên, người Việt Nam quốc tịch Hoa
Kỳ. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại
giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng như
sau: Chân
pháp vang rền tiếng diệu âm. Huyền cơ soi thấu khối sơ
tâm. Một buông pháp giới bừng hương sắc. Linh Thứu tuy
xa cũng thật gần.
Chân
Hương Sơn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Ann Johnston, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ
truyền đăng như sau: Vầng
trăng trên biển bạc. Đã về ngự Hương Sơn. Sóng không
sinh chẳng diệt. Mưa biển lại về nguồn.
Chân
Hướng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Lawler John Joseph, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với
bài kệ truyền đăng như sau: Chân
nhân thường đối diện. Một Hướng nẻo đại đồng.
Nắm tay nhau cùng bước. Khúc hát trời rạng đông.
Chân
Hữu (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Gia Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
Hữu là đây một cánh tay. Tình sông nghĩa biển lượng
đong đầy. Dậu thu vừa nảy dò sương ấy. Thiền trà
hương ngát chén hồng mai.
Chân
Hỷ Căn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Nongluck Somri, người Thái Lan. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Văn Lang với
bài kệ truyền đăng như sau: Thực
tập từ bi nuôi hỷ xả. Hành trì định tuệ nối căn
duyên. Hơi thở bước chân tròn chánh niệm. Pháp thân
sáng rỡ nối chân truyền.
Chân
Khai (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Laurie Lawlor, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Chân
tình tô thắm nước cùng mây. Khai bút trời xuân hương
thắm bay. Tuổi ngọc thấm nhuần ơn giáo dưỡng. Pháp
thân tỏa chiếu nước non này.
Chân
Không (tên
gọi) Xem Không
Nghiêm.
Chân
Kính (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, nam
tên David Dimack, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với
bài kệ truyền đăng như sau: Chân
như trúc tím hoa vàng. Thủy chung một niệm muôn vàn Kính
thương. Sao mai vừa hiện tỏ tường. Ý đầu tâm hợp
muôn phương thái hòa.
Chân
Lạc Thi (tên
gọi) Một
vị giáo thọ cư sĩ nữ, tên Joanne Friday, người Mỹ.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới
đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng: Hương
quốc đi về an Lạc. Thi ân chẳng bận lòng ai. Huệ lan
một nhà sực nức. Từ bi tiếp xử muôn loài.
Chân
Linh Thông
(tên
gọi) Một
vị giáo thọ cư sĩ nữ, tên Barbara Caseys, người Mỹ.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2009 trong đại giới
đàn Mùa Sen Mới với bài kệ truyền đăng: Đường về
Linh Thứu hoa sen nở. Thông đạt nguồn tâm đuốc Tuệ
soi. Bếp hồng lửa ấm ngày đông giá. Một kho chữ nghĩa
sáng sao trời.
Chân
Lương (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
pháp danh Tâm Chất, tên Nguyễn Bạch Mai. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương
Tích với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
pháp một lần khám phá. Lương y sẵn có trong nhà. Đạt
tới mùa xuân chuyển hóa. Công phu chỉ tại lòng ta.
Chân
Lượng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Fred Eppsteiner, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài
kệ truyền đăng như sau: Chân
quán luyện thành ngọc báu. Lượng từ che chở cho nhau.
Cánh cửa vô sinh đã hé. Nhất tâm thành tựu đạo màu.
Chân
Minh Đăng (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Hữu Xương. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với bài kệ
truyền đăng như sau: Minh
châu vạt áo đẹp tinh khôi. Đăng hòa mười năm đã sáng
trời. Cơ nghiệp tổ tiên cùng dựng lại. Vườn xưa đào
lý vẫn xinh tươi.
Chân
Minh Đức (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Trần
Kim Quế. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Minh
thấy vô minh chúm chím cười. Ðức nhà phân phát đủ
muôn nơi. Huệ lan sực nức vườn xuân mới. Bước chân
đem tới một trời vui.
Chân
Minh Trí (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Hồ Văn Quyền. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với bài kệ
truyền đăng như sau: Đông
sơn vừa lộ ánh quang minh. Trí đã bừng câu tráng sĩ
hành. Khánh bạc chuông vàng phương tiện cũ. Đường mây
cao vút cánh chim xanh.
Chân
Minh Tuệ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Viên, người Việt Nam quốc tịch Hoa Kỳ. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2001 trong đại giới đàn
Kỷ Nguyên Mới với bài kệ truyền đăng như sau: Quang
Minh vầng nhật chiếu trời sương. Trí tuệ bừng lên tỏ
ngọn nguồn. Diệu khúc muôn đời nên cử xướng. Đường
về quê cũ rạng yêu thương.
Chân
Môn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Svein Myreng, người Na Uy. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài
kệ truyền đăng như sau: Chân
nghĩa hùng lực lớn. Môn lưu ngàn thuở truyền. Thân và
tâm nhất quán. Diệu pháp thường có duyên.
Chân
Mỹ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Nguyễn Thị Tuyết Mai. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Chân
như cười nhẹ khung trời nắng. Mỹ diệu trăng lồng một
biển thu. Mây trắng đường xưa luôn biểu hiện. Lối về
quê cũ đẹp như thơ.
Chân
Nghĩa (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
pháp danh Tâm Khai Ngộ, tên Lê Văn Đán. Được Thầy Làng
Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã
Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
Nghĩa thượng thừa mong liễu ngộ. Thiền trà nên cạn
chén hồng mai. Long lanh đáy nước trăng vàng chiếu. Một
thiên tuyệt bút để dành ai.
Chân
Ngộ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Duy Vinh. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
nhân trước mặt cười không nói. Ngộ đạo ngồi nhìn
mây trắng bay. Trúc tím hoa vàng bày diệu hữu. Trăng
trong mây bạc vẫn còn đây.
Chân
Nguyên (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Cynthia Jurs. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
giác không ngoài cõi diệu tâm. Nguyên lưu vằng vặc ánh
trăng rằm. Lắng nghe được tiếng hoa đào nở. Sẽ thấy
trần gian Bụt giáng lâm.
Chân
Nguyện (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Công Huyền Tôn Nữ Huyền Châu. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với
bài kệ truyền đăng như sau: Chân
giải ý thâm diệu. Nguyện phát túc siêu phương. Cước
lập bản môn địa. Ưng liễu thế vô thường.
Xem thêm Quy
Nghiêm.
Chân
Nguyệt Quang (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Claudia Weiland. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
nhật phá mây sầu ám. Nguyệt Quang tiếp xúc địa cầu.
Tăng thân bước về một hướng. Ngàn đời ta vẫn còn
nhau.
Chân
Nguyệt Tâm (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Terry Barber, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới
với bài kệ truyền đăng như sau: Lung
linh bóng Nguyệt soi thềm. Cõi Tâm mở sáng đêm đêm ngân
hà. Nhiệm mầu tiếng hạc bay qua. Vén mây trông rõ phá
tòa nguyên sơ.
Chân
Pháp (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Peen Kristen. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ truyền đăng
như sau: Chân
tính không sinh diệt. Pháp giới vẫn hiện tiền. Nước
cam lồ một giọt. Rửa sạch mọi tiền khiên.
Chân
Pháp Kiều (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Richard Brady, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Mưa
pháp thấm nhuần cõi đất tâm. Đại Kiều mong nối lại
tình thâm. Một sân hòe quế ngày chăm bón. Sạch hết bao
nhiêu lớp cát lầm.
Chân
Pháp Lực (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Rowan Conrad, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với bài kệ
truyền đăng như sau: Tương
thử sơ tâm chân Pháp Lực. Tiếp độ lục đạo chư quần
mê. Chưởng thượng minh châu thường quảng nhiếp. Năng
linh u xứ hướng bồ đề.
Chân
Pháp Nhãn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Karl Schmied, người Đức. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài
kệ truyền đăng như sau: Chân
quán vừa tùy thuận. Pháp Nhãn đã trao truyền. Trên đường
về tự tại. Cười dứt vạn trần duyên.
Chân
Quả (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, tên
Nora Houtmann De Graaf. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ truyền đăng
như sau: Chân
tính không sinh diệt. Quả báo trong tầm tay. Không đi cũng
không tới. Cõi tâm trăng sáng đầy.
Chân
Quang (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Therese Fitzgerald, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với
bài kệ truyền đăng như sau: Chân
tính vốn là ánh sáng. Quang minh soi chiếu tỏ tường. Đất
tâm gieo hạt giống quý. Hoa đàm nở ngát mười phương.
Chân
Quang Đạo (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên John Barclays. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ truyền
đăng như sau: Hào
Quang sáng tỏ ngời chân Đạo. Hàng vạn bông hoa ngoảnh
mặt nhìn. Từng bước thảnh thơi trên cõi Tịnh. Từng
hơi thở nhẹ chở niềm tin.
Chân
Quang Lâm (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
pháp danh Firm Virtue of the Source, tên Tony Mills. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế
với bài kệ truyền đăng như sau: Quang
minh vầng nguyệt chiếu Lâm tuyền. Lặng lẽ tinh cầu
quán đại thiên. Cát tường nở trắng bông tinh khiết.
Thế giới ba ngàn đứng lặng yên.
Chân
Sắc (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Bossert Judith. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1990 với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
nguyên nước tĩnh tưới trần gian. Sắc khác gì không,
pháp bảo đàn. Gió sớm mây hồng tuyên Bát Nhã. Hoa cười
ngọc thốt vẫn đoan trang.
Chân
Sinh (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Hoàng Phúc. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
như là bản môn. Sinh diệt nào động tới? Thức dậy sớm
mai hồng. An nhiên không chờ đợi.
Chân
Thành Tựu (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, tên
Marcel Geisser. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1994
trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền đăng
như sau: Chân
pháp chỉ là một. Thành Tựu có muôn đường. Tâm từ
trùm pháp giới. Gia nghiệp khéo thừa đương.
Chân
Thắng Giải (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Patrick Lacoste. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Phúc
duyên thù Thắng nơi đây. Lòng riêng một tấc Giải bày
núi sông. Mới hay thanh khí tương tầm. Vàng gieo đáy nước
cây lồng bóng sân.
Chân
Thâm Hạnh (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Marc Puissant, người Pháp. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với
bài kệ truyền đăng như sau: Chân
kinh hàm chứa nghĩa cao Thâm. Hạnh giải vang lừng khúc
phạm âm. Biển khổ thuyền từ dong một lá. Nhờ tay tế
độ vớt trầm luân.
Chân
Thâm Tuệ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Châu Yoder, người Việt Nam quốc tịch Mỹ. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn
Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Một
đi về hướng cao Thâm. Vun bồi Tuệ giác, chuyên cần sớm
trưa. Ra công học đạo chân thừa. Vườn tâm xanh tốt
bốn mùa nở hoa.
Chân
Thật (tên
gọi) Vị đệ tử út của tổ Cương
Kỷ tăng cang chùa Từ Hiếu, pháp danh Thanh Quý, bổn sư
của Thầy Làng Mai. Tổ được sư huynh Tuệ Minh phó pháp
truyền đăng với bài kệ sau đây: Chân
Thật duy tùng thể tính không. Thâm cùng vọng thức bản
lai không. Thỉ tư thị vật nguyên vô vật. Diệu dụng vô
khuy chỉ tự công.
Chân
Thật Đạo (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
pháp danh Tâm Hiền, tên Shantum Seth, người Ấn Độ. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2001 trong đại giới đàn
Kỷ Nguyên Mới với bài kệ truyền đăng như sau: Quán
tâm Thật tướng tợ trăng rằm. Đạo cũng tâm mà cảnh
cũng tâm. Sông Hằng cát trắng ai ngồi đếm? Môi bé thơ
cười giữa Trúc Lâm.
Chân
Thiện (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Lynn Fine, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài
kệ truyền đăng như sau: Chân
ý không nề biên giới. Thiện căn ở tại lòng ta. Tình
nghĩa hai bờ trọn vẹn. Chiếu soi đuốc sáng Phật đà.
Chân
Thiện Căn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Đỗ Văn Hòa. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
1994 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ truyền
đăng: Chân
tính vốn nguồn gia bảo. Thiện căn ở tại trong lòng.
Tam bảo thuyền từ bảo hộ. Mặt trời rạng rỡ phương
đông.
Chân
Thiện Sinh (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Elisabeth Ann Wood, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai
truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã
Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Nga
mi sương giải niềm Chân Thiện. Mỹ diệu trăng lồng ý
độ Sinh. Đốt cháy thành sầu đây đuốc tuệ. Một trời
mây nước chiếu quang minh.
Chân
Thuyên (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Đỗ Trọng Lễ. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với bài kệ
truyền đăng như sau: Tình
sông nghĩa núi, khối chân tâm. Thuyên giải thiền cơ
xướng phạm âm. Nắng lên soi thấu trời phương ngoại.
Trăng thề còn đó, ngọc thành văn.
Chân
Thừa (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Harrison Hoblitezelle. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ truyền
đăng như sau: Chân
nguyên duy có một. Thừa đâu phải là ba? Một bước vào
pháp giới. Soi rạng cõi ta bà.
Chân
Tiếp (tên
gọi) Một vị giáo cư sĩ nữ, tên
Halifax Joan, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1990 với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
quả hình thành tự thủa xưa. Tiếp độ công phu của
thượng thừa. Trí sáng xoay về soi bản thể. Sẵn thuyền
Bát nhã đón rồi đưa.
Chân
Tính Không (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Vũ Thị Dung. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
kinh thường trì tụng. Tính Không trăng hiện tiền. Tai
ương rơi rụng hết. Bến giác cùng bước lên.
Chân
Tịnh (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Larry Rosenberg, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
không là chân sắc. Tịnh ý tức tịnh thân. Siêu việt
được năng sở. Chi sá đám bụi hồng.
Chân
Tịnh Giới (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Trọng Phu. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
tâm là ánh sáng. Tịnh Giới cõi trang nghiêm. Pháp đăng
soi nhật dụng. Ấn Bụt mãi lưu truyền.
Chân
Tịnh Nhãn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Văn Kỳ Cương. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài
kệ truyền đăng như sau: Chân
thân là Phật độ. Tịnh Nhãn chuyển ta bà. Trên bùn sen
ngọc nở. Bến giác chở người qua.
Chân
Trí (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Bá Thư, người Việt Nam quốc tịch Mỹ. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1992 trong đại giới đàn
Cam Lộ với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
nguyệt thường lặng chiếu. Trí cảnh vẫn dung thông. Lối
về soi chánh niệm. Thắp sáng một mai hồng.
Chân
Trí Cảnh (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Mitchell Ratner, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2001 trong đại giới đàn Kỷ Nguyên Mới với
bài kệ truyền đăng như sau: Tỉnh
giấc kê vàng Chân Trí sinh. Muôn ngàn Cảnh giới sáng
lung linh. Rừng tía thảnh thơi ngồi tĩnh lự. Thanh sơn
nhẹ bước thỏa chân tình.
Chân
Truyền (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
pháp danh Tâm Điểm, tên Đinh Thị Vân Khanh. Được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ
với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
tính là cam lộ. Truyền đạt vốn từ nguồn. Một lòng
chuyên hướng thượng. Niềm an lạc trào tuôn.
Chân
Tuệ (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Hữu Lợi. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 1990 với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
trí soi vào cõi huyễn mê. Tuệ giác bừng lên tỏ lối
về. Giây phút đại bàng vừa vỗ cánh. Sá gì mấy vạn
dặm sơn khê.
Chân
Tuệ Hương (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
pháp danh Tâm Tương Tri, tên Hoàng Dung, người Việt Nam
quốc tịch Úc. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Giới
định hương và trí Tuệ Hương. Quê xưa giáp mặt lộ
chân thường. Tình sông nghĩa biển sâu dài lắm. Dậu thu
vừa mới nảy dò sương.
Chân
Tuệ Lưu (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Odette Bauweleers. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Nhiệm
màu dòng Tuệ luân Lưu. Trăng vàng đã hiện trên đầu
núi xanh. Sẵn gươm tuệ giác bên mình. Thảnh thơi hạc
trắng, mặc tình rong chơi.
Chân
Tuệ Ngạn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên William Menzas, người Mỹ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với
bài kệ truyền đăng như sau: Trí
tuệ đưa về nơi bỉ ngạn. Ðất thiêng vọng tiếng hải
triều lên.
Tốt
tươi hồng lục xuân thường tại. Mỗi bước chân ngời
đóa thủy tiên.
Chân
Tuệ Thân (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Ian Prattis, người Canada. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với
bài kệ truyền đăng như sau: Đuốc
Tuệ bừng lên rạng pháp Thân. Trong mây xa có hạt mưa
gần. Vòng tay nhận thức ôm năng sở. Một đóa trà mi nở
trước sân.
Chân
Tuệ Tu (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Adrianna Rocco, người Ý. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với bài kệ
truyền đăng như sau: Sự
nghiệp duy hướng Tuệ. Mây tuyết thuận đường Tu. Tịnh
độ trong từng bước. Sen nở ngát xuân thu.
Chân
Tuệ Uyển (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Võ Thị Minh Tri, người Việt Nam quốc tịch Pháp.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới
đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau:
Tài
bồi Tuệ Uyển trăm hoa. Minh tri hạnh ấy cũng là tương
tri. Nước non lắng tiếng Chung Kỳ. Bè từ vượt khỏi
sông mê khó gì?
Chân
Từ Hạnh (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, tên
Gioacchino Difeo. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003
trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền
đăng như sau: Sen
quê nở ngát hương Từ. Trăng vàng Hạnh nguyện năm xưa
sáng đầy. Lời nguyền đỉnh báu hương bay. Cho thân ngữ
ý diễn bày Phật tâm.
Chân
Từ Nhãn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ, tên
Jorgen Hannibal. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1994
trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền đăng
như sau: Chân
quán thanh tịnh quán. Từ Nhãn nhìn chúng sanh. Thầy hay có
linh dược. Không bệnh nào không lành.
Chân
Từ Ý (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Diana Petech. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2006 trong đại giới đàn Văn Lang với bài kệ truyền
đăng như sau: Từ
ý mây lành dâng bốn hướng. Dòng mưa Cam lộ rưới tình
thương. Năm tháng công phu nuôi giới định. Tăng thân bảo
hộ, nguyện lên đường.
Chân
Tự Tại (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
pháp danh Tâm Bảo Ấn, tên Đặng Phước Nhường. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn
Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Liễu
biếc oanh vàng chân Tự Tại. Gió quang mây tạnh đã an
bài. Châu về hợp phố trong thanh khí. Sân ngoài tuyết
điểm một nhành mai.
Chân
Văn (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Đỗ Quý Toàn. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ
truyền đăng như sau: Chân
Văn huyền ý cao sâu. Về đây khai ngộ ném châu gieo vàng.
Ngại gì bèo hợp mây tan. Một trời phong nguyệt rõ ràng
đôi ta.
Chân
Viên Dung (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Nguyễn Văn Tuyến, người Việt Nam quốc tịch Canada.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới
đàn Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau:
Lắng
lòng nghe thấu Viên âm. Ấn thiêng tam muội Dung thông
nhiệm màu. Đường về quê cũ xưa sau. Trí bi nguyện mãn
bắc cầu độ sinh.
Chân
Viên Minh – Chân Viên Giác (tên
gọi) Hai vợ chồng giáo thọ cư sĩ,
tên Jacques Gaudin và Jacqueline Gaudin, người Pháp. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn
Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Viên
Minh tỏa chiếu nguyệt trời cao. Tuệ Giác xua tan bóng khổ
sầu. Cùng đến cùng đi trên đất tịnh. Đá mòn sông
cạn vẫn còn nhau.
Chân
Viên Thành (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nam,
tên Tư Đồ Minh. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2003 với bài kệ truyền đăng như sau: Biến
kế buông rồi sáng cõi tâm. Viên Thành tự tánh hiện ba
thân. Giọt nắng mùa thu mang viễn vọng. Xuân về rạng
rỡ chốn non sông.
Chân
Vị (tên
gọi) Xem Vị
Nghiêm.
Chân
Y (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ , tên
Barry Roth. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1994 trong
đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền đăng như
sau: Chân
nguyện là chân đạo. Y vương tức Pháp vương. Dưới cội
bồ đề mát. Có pháp tọa kim cương.
Chân
Ý (tên
gọi) Một vị giáo thọ cư sĩ nữ,
tên Nguyễn Anh Hương, người Việt Nam quốc tịch Mỹ.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1992 trong đại giới
đàn Cam Lộ với bài kệ truyền đăng như sau: Chân
tâm ươm hạt quý. Ý vun bón vườn nhà. Thanh thản cùng
năm tháng. Lòng đất tự đơm hoa.
Chấp
tác (thuật ngữ, phép tu)
Làm việc trong chánh niệm. Những công việc như dọn dẹp
thiền đường, chăm sóc vườn rau, nấu cơm, lái xe, giặt
giũ, chăm sóc thiền sinh,... tất cả đều là chấp tác.
Các công việc cần được làm trong chánh niệm và niềm
vui, vì đây là cơ hội để chế tác chánh niệm và phụng
sự tăng thân, đem niềm vui và tiện nghi đến cho tăng
thân để tăng thân có đủ điều kiện tu học.
Chấp
tác ba xóm (sinh hoạt) Buổi thiền làm việc
chung của đại chúng cả ba xóm bốn chùa Làng Mai tại
một xóm để giúp công việc cho xóm đó. Đại chúng làm
việc với tinh thần không phân biệt, coi công việc của
một xóm cũng là công việc của cả tăng thân nên ngày
chấp tác ba xóm đầy niềm vui và là ví dụ rất cụ thể
về xây dựng tình huynh đệ.
Chất
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1978,
tập sự xuất gia năm 2007 (29 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 20 tháng 09 năm 2008 (30 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu,
pháp danh Tâm Quảng Duyên, pháp tự Chân Chất Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử
thứ 553 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chất Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Châu
Nghiêm (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ
của Làng Mai. Người Mỹ-Phi, quốc tịch Mỹ, sinh năm
1974, tập sự xuất gia năm 1999 (25 tuổi), thọ giới Sa Di
Ni ngày 4 tháng 12 năm 1999 (25 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm –
Làng Mai, pháp danh Bringing Peace and Joy Of The Heart, pháp tự
Chân Châu Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Anh
Đào. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2003 trong đại giới
đàn Đã Về Đã Tới. Thọ giới lớn ngày 9 tháng 1 năm
2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới. Nhận truyền
đăng năm 2007 trong đại giới đàn Phương Bối với bài
kệ truyền đăng:
Tìm được bảo châu tà áo cũ.
Khắp nơi đại địa bỗng trang nghiêm.
Chín tầng năm sắc mây vừa hiện.
Tiếp nhận trên tay đạo chính truyền.
Là đệ tử thứ 98 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Châu Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Tìm được bảo châu tà áo cũ.
Khắp nơi đại địa bỗng trang nghiêm.
Chín tầng năm sắc mây vừa hiện.
Tiếp nhận trên tay đạo chính truyền.
Là đệ tử thứ 98 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Châu Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Châu
Toàn (tên
gọi) Vị giám đốc điều hành thứ
hai của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, trụ trì
chùa Trúc Lâm, Gò Vấp, đệ tử của thiền sư Mật Thể.
Chí
Mãn (tên
gọi) Một trong những vị đệ tử
xuất gia của tổ Thanh Quý Chân Thật, pháp danh Trừng
Viên, trụ trì chùa Pháp Vân, Đà Nẵng.
Chí
Mậu (tên
gọi) Một trong những vị đệ
tử xuất gia của tổ Thanh Quý Chân Thật, pháp danh Trừng
Tuệ, giám tự tổ đình Từ Hiếu. Được Thầy Làng Mai
phó pháp truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn
Tụ với bài kệ truyền đăng như sau: Công phu Chí quả
nuôi từ quán. Nẻo về thịnh Mậu núi Dương Xuân. Quyết
tâm nuôi lớn tình huynh đệ. Đất thiêng rạng rỡ bước
siêu trần.
Chí
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của
Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm
1986, tập sự xuất gia năm 2004 (18 tuổi), thọ giới Sa Di
Ni ngày 1 tháng 2 năm 2005 (19 tuổi) tại chùa Hoằng Pháp,
Việt Nam, pháp danh Tâm Hải Tâm, pháp tự Chân Chí Nghiêm.
Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Vú Sữa. Thọ giới
Thức Xoa Ma Na năm 2007 trong đại giới đàn Phương Bối.
Thọ giới lớn ngày 5 tháng 1 năm 2008 tại Làng Mai trong
đại giới đàn Thanh Lương Địa. Là đệ tử thứ 232
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chí Nghiêm thuộc thế hệ thứ
43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu
Quán.
Chí
Niệm (tên
gọi) Một trong những vị đệ tử
xuất gia của tổ Thanh Quý Chân Thật, pháp danh Trừng
Trì, giám tự tổ đình Từ Hiếu.
Chí
Thắng (tên
gọi) Một trong những vị đệ tử
xuất gia của tổ Thanh Quý Chân Thật, pháp danh Trừng
Sơn, trụ trì chùa Phước Thành, Huế.
Chí
Viên (tên
gọi) Một trong những vị đệ tử
xuất gia của tổ Thanh Quý Chân Thật, pháp danh Trừng
Dũng, trụ trì chùa Linh Phong, Nha Trang.
Chỉ
(phép
tu) Chỉ tức là dừng lại.
Dừng lại sự tán loạn, dừng lại sự quên lãng.
Dừng lại để tập trung tâm ý vào một đối
tượng (để mà xét nghiệm đối tượng đó).
Dừng lại để sống trong giây phút hiện tại, để
ý thức những gì đang diễn ra trong giờ phút hiện
tại. Để thực hiện sự tập trung tâm ý, hành
giả thực tập phép đếm hơi thở, hay theo dõi hơi
thở. Trong khi thở, ta để hết tâm ý vào hơi thở.
Hơi thở cần nhẹ nhàng, khoan thai và liên tục như
một dòng nước nhỏ chảy trong cát mịn. Khi thở
vào, ta biết là ta đang thở vào. Khi thở ra, ta cũng
thở nhẹ nhàng, khoan thai và liên tục. Thở tới đâu
thì biết tới đó. Đời sống hàng ngày có đầy
rẫy những lo âu và áp lực. Nếu không biết thực
tập dừng lại bằng cách hành thiền thì thần
kinh và bắp thịt của ta sẽ trở nên căng thẳng và
lâu ngày tình trạng có thể trở thành nguy hiểm.
Chỉ
cần các thầy đồng ý (giai
thoại) Năm nọ, tại Làng Mai, đại
chúng đang chuẩn bị cho khóa tu mùa hè. Một buổi trưa
tại Xóm Thượng, sau khi ăn cơm trưa xong thầy Pháp Ấn
đang ngồi nghỉ một chút trước khi vào buổi chấp tác
buổi chiều, bỗng thầy chợp mắt thiếp đi thì lập tức
thầy chiêm bao thấy có một đoàn xe thiết giáp chở đầy
những người lính Pháp đi vào Làng. Khi xe dừng lại,
người chỉ huy trưởng bước xuống khỏi xe rồi đi đến
chỗ thầy Pháp Ấn đang ngồi và nói:
“Thưa thầy, chúng tôi là những người lính trong quân đội Pháp, chúng tôi muốn đăng ký để tham dự khóa tu mùa hè này với các thầy. Xin các thầy giúp cho.”
Thầy Pháp Ấn nhìn ông ta và nói: “Thưa ông, rất tiếc là khóa tu mùa hè này chúng tôi đã không còn chỗ cho thiền sinh nữa rồi.”
Ông ta lại nói: “Thưa thầy, không sao cả, chỉ cần các thầy đồng ý cho chúng tôi tham dự khóa tu, tất cả các chuyện ăn ở chúng tôi sẽ tự lo liệu được.”
Vừa lúc đó thì thầy Pháp Ấn tỉnh dậy và vẫn còn thấy rất rõ giấc mơ kỳ lạ vừa rồi. Ngồi một chút thầy Pháp Ấn nhớ lại là thầy được nghe kể rằng, hồi đó trong chiến tranh thế giới thứ hai, Xóm Thượng bây giờ là nơi mà người ta dùng làm nơi xử bắn người, và đã có rất nhiều người lính Pháp bị xử bắn tại đây. Thầy chợt hiểu về giấc mơ kỳ lạ này. Và trong khóa tu mùa hè năm đó tại Xóm Thượng quý thầy đã cúng cô hồn (hungry ghost offering) mỗi ngày.
“Thưa thầy, chúng tôi là những người lính trong quân đội Pháp, chúng tôi muốn đăng ký để tham dự khóa tu mùa hè này với các thầy. Xin các thầy giúp cho.”
Thầy Pháp Ấn nhìn ông ta và nói: “Thưa ông, rất tiếc là khóa tu mùa hè này chúng tôi đã không còn chỗ cho thiền sinh nữa rồi.”
Ông ta lại nói: “Thưa thầy, không sao cả, chỉ cần các thầy đồng ý cho chúng tôi tham dự khóa tu, tất cả các chuyện ăn ở chúng tôi sẽ tự lo liệu được.”
Vừa lúc đó thì thầy Pháp Ấn tỉnh dậy và vẫn còn thấy rất rõ giấc mơ kỳ lạ vừa rồi. Ngồi một chút thầy Pháp Ấn nhớ lại là thầy được nghe kể rằng, hồi đó trong chiến tranh thế giới thứ hai, Xóm Thượng bây giờ là nơi mà người ta dùng làm nơi xử bắn người, và đã có rất nhiều người lính Pháp bị xử bắn tại đây. Thầy chợt hiểu về giấc mơ kỳ lạ này. Và trong khóa tu mùa hè năm đó tại Xóm Thượng quý thầy đã cúng cô hồn (hungry ghost offering) mỗi ngày.
Chỉ
Nam Thiền Tập (sách)
Một cuốn sách do Thầy Làng Mai viết riêng cho người
trẻ, trình bày những phương pháp thực tập cụ thể mà
giới trẻ có thể áp dụng vào cuộc sống hàng ngày
trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay. Bản điện
tử được đăng trên trang nhà Làng Mai www.langmai.org
Chỉ
Nghiêm (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ
của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh
năm 1960, tập sự xuất gia năm 2001 (41 tuổi), thọ giới
Sa Di Ni ngày 7 tháng 2 năm 2002 (42 tuổi) tại chùa Từ
Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Diệu Thể, pháp tự Chân
Chỉ Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Thốt Nốt.
Thọ giới thức xoa ma na năm 2004 trong đại giới đàn Lâm
Tế. Thọ giới lớn ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại
giới đàn Đoàn Tụ. Nhận truyền đăng năm 2009 trong đại
giới đàn Mùa Sen Mới với bài kệ truyền đăng:
Con đường chỉ quán tinh nghiêm.
Chân như hiển lộ nơi miền tử sinh.
Phút giây khám phá chân hình.
Thong dong mây trắng trời xanh gọi mời.
Là đệ tử thứ 132 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chỉ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Con đường chỉ quán tinh nghiêm.
Chân như hiển lộ nơi miền tử sinh.
Phút giây khám phá chân hình.
Thong dong mây trắng trời xanh gọi mời.
Là đệ tử thứ 132 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chỉ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Chỉ
quán (phép
tu) Chỉ là sự ngưng tụ, làm
lắng dịu, tập trung. Tiếng Phạn là samatha. Quán
là nhìn sâu để thấy tự tánh của đối tượng quán
chiếu. Tiếng Phạn là vipasyana. Sau khi đã có
chỉ, tức là đã có sự tập trung tâm ý vào đối
tượng, hành giả tiếp tục thực tập nhìn sâu.
Nhìn sâu để thấy được bản chất đích thực
của đối tượng quán sát. Cái thấy này là tuệ,
là sự hiểu biết, là cái thấy chính xác về
sự vật. Nếu chỉ đưa tới định thì quán đưa
tới tuệ. Có chỉ tức là có quán, và khi đã có
quán tức là đã có chỉ.
Chỉ
quán song hành (thuật
ngữ) Chỉ và quán đi đôi với
nhau. Nếu chỉ vững chãi thì quán bắt đầu xuất hiện.
Nếu quán đã có mặt thì chỉ cũng đã có mặt. Chỉ
giúp cho quán và quán giúp cho chỉ, đó là chỉ quán song
hành. Xem Chỉ quán và Mười bốn bài kệ chỉ
quán.
Chỉ
Quán Yếu Lược (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do Hội Phật Học Nam
Việt xuất bản năm 1955, in lại từ tạp chí Từ Quang.
Đây là một bài giảng của Thầy Làng Mai tại giảng
đường hội Phật Học Nam Việt trụ sở tại chùa Phước
Hòa, Bàn Cờ, Sài Gòn, trước khi Chùa Xá Lợi được bắt
đầu khởi công.
Chiêu
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1980,
tập sự xuất gia năm 2008 (28 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 20 tháng 09 năm 2008 (28 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu,
pháp danh Tâm Liên Thanh, pháp tự Chân Chiêu Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ
555 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chiêu Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Chiếu
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1976,
tập sự xuất gia năm 2006 (30 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 3 tháng 3 năm 2007 (31 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Thanh Trần, pháp tự Chân Chiếu Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Thọ giới
Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới
đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 397 của Sư Ông Làng
Mai. Sư cô Chiếu Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Chim
Về Trên Không (sách)
Một cuốn sách do Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất xuất bản năm 1971 để tưởng niệm
chị Nhất Chi Mai – một trong sáu người đệ tử đầu
tiên thọ giới Tiếp Hiện với Thầy Làng Mai, người đã
tự thiêu ngày 16 tháng 5 năm 1967 tại Sài Gòn để cầu
nguyện cho hòa bình. Bài viết của Thầy ký bút hiệu
Thạc Đức và Nhất Hạnh.
Chính
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1982,
tập sự xuất gia năm 2005 (23 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 10 tháng 5 năm 2006 (24 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Thanh Quy, pháp tự Chân Chính Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Hải Đường. Là đệ tử
thứ 367 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chính Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Chỉnh
Độ (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia
nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn
Văn Lang với bài kệ truyền đăng như sau:
Phong quang nghiêm Chỉnh Độ người.
Mùa xuân đạo pháp xinh tươi đến gần.
Soi sao cho thấu nguồn chân.
Nước non ghi nét tương phùng hôm nay.
Thầy Chỉnh Độ thuộc thế hệ thứ 45 của tông Lâm Tế.
Phong quang nghiêm Chỉnh Độ người.
Mùa xuân đạo pháp xinh tươi đến gần.
Soi sao cho thấu nguồn chân.
Nước non ghi nét tương phùng hôm nay.
Thầy Chỉnh Độ thuộc thế hệ thứ 45 của tông Lâm Tế.
Chỉnh
Đức (tên
gọi) Một vị xuất gia nam tu học
theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia năm 2003
tại Việt Nam. Đến Làng Mai từ năm 2007. Thầy Chỉnh Đức
thuộc thế hệ thứ 46 của tông Lâm Tế.
Chỉnh
Long
(tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam
tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2009 trong đại giới đàn
Mùa Sen Mới với bài kệ truyền đăng như sau:
Tăng già chấn Chỉnh, pháp hưng Long.
Thế giới giang tay kết đại đồng.
Bàn chân tịnh độ quen in dấu.
Đường về thanh thản gió mùa xuân.
Đến Làng Mai từ năm 2006. Thầy Chỉnh Long thuộc thế hệ thứ 46 của tông Lâm Tế.
Tăng già chấn Chỉnh, pháp hưng Long.
Thế giới giang tay kết đại đồng.
Bàn chân tịnh độ quen in dấu.
Đường về thanh thản gió mùa xuân.
Đến Làng Mai từ năm 2006. Thầy Chỉnh Long thuộc thế hệ thứ 46 của tông Lâm Tế.
Chỉnh
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1982,
tập sự xuất gia năm 2007 (25 tuổi), thọ giới Sa Di ngày
17 tháng 2 năm 2008 (26 tuổi) tại tu viện Bát Nhã, pháp
danh Tâm Nhuận Hồng, pháp tự Chân Chỉnh Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Lê. Là đệ tử thứ 490 của
Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chỉnh Nghiêm thuộc thế hệ thứ
43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu
Quán.
Chỉnh
Phúc (tên
gọi) Một vị xuất gia nam tu học
theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia năm 2000
tại Huế, pháp danh Nhuận Phổ, pháp tự Chỉnh Phúc. Thọ
giới lớn ngày 16 tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn
Văn Lang. Đến Làng Mai từ năm 2006. Thầy Chỉnh Phúc
thuộc thế hệ thứ 46 của tông Lâm Tế.
Chỉnh
Quang (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam
tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia
năm 1996 tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 2009 trong đại giới đàn Mùa Sen Mới với bài kệ
truyền đăng như sau:
Giới thân hoàn Chỉnh định sinh Quang.
Tuệ nhật sum lâm chiếu đạo tràng.
Điệp khúc thiên thần vừa khởi xướng.
Nhiệm mầu cánh cửa mở yêu thương.
Đến Làng Mai từ năm 2007. Thầy Chỉnh Quang thuộc thế hệ thứ 46 của tông Lâm Tế.
Giới thân hoàn Chỉnh định sinh Quang.
Tuệ nhật sum lâm chiếu đạo tràng.
Điệp khúc thiên thần vừa khởi xướng.
Nhiệm mầu cánh cửa mở yêu thương.
Đến Làng Mai từ năm 2007. Thầy Chỉnh Quang thuộc thế hệ thứ 46 của tông Lâm Tế.
Chơn
Đệ (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ
tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm
1972, xuất gia tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2007 trong đại giới đàn Phương Bối với bài
kệ truyền đăng:
Chân huynh Chân Đệ tợ trăng rằm.
Nhìn kỹ Tăng thân thấy Phật thân.
Trái tim Thích nữ thơm nguyền ước.
Tịnh độ xây nên giữa cõi trần.
Đến Làng Mai từ năm 2003.
Chân huynh Chân Đệ tợ trăng rằm.
Nhìn kỹ Tăng thân thấy Phật thân.
Trái tim Thích nữ thơm nguyền ước.
Tịnh độ xây nên giữa cõi trần.
Đến Làng Mai từ năm 2003.
Chơn
Tâm (tên gọi) Một vị
xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt
Nam, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 1993 (7 tuổi), thọ
giới Sa Di Ni năm 2000 (15 tuổi) tại tu viện Viên Thông.
Thọ giới thức xoa ma na năm 2003 trong đại giới đàn
Thiên Hòa - Vũng Tàu. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 3 năm
2007 trong đại giới đàn Phương Bối. Đến Làng Mai năm
2008.
Chùa
Lá (cơ
sở) Xem Pháp
Vân.
Chùa
Non (cơ
sở) Một ngôi chùa ở xã Phù Linh,
huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội, nằm bên cạnh Học
Viện Phật Giáo Việt Nam, vị trụ trì là Thượng tọa
Thích Thanh Quyết. Đại Trai Đàn Chẩn Tế Bình Đẳng
Giải Oan thứ ba trong chuyến về của Tăng thân Làng Mai
đã được tổ chức tại đây từ ngày 20.04.2007 đến
ngày 22.04.2007. Chủ sám của Đại Trai Đàn là Thượng
Tọa Thích Thanh Nhã và Thượng Tọa Thích Quảng Hà.
Chùa
Làng Mai (sách)
Một cuốn sách trích đăng các bài viết của Thầy Làng
Mai từ Lá Thư Làng Mai năm 1999, in tại Việt Nam năm 2000.
Chuẩn
Nghiêm
(tên gọi) Một vị xuất gia nữ của
Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm
1983, tập sự xuất gia năm 2008 (25 tuổi), thọ giới Sa Di
Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 (25 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu,
pháp danh Tâm Liên Hòa, pháp tự Chân Chuẩn Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ
560 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chuẩn Nghiêm thuộc thế
hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Chúc
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1991,
tập sự xuất gia năm 2006 (15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 3 tháng 3 năm 2007 (16 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Quảng Hòa, pháp tự Chân Chúc Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Là đệ tử thứ
460 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chúc Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Chúc
Thịnh (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam
tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia
năm 1989 tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng
năm 2006 trong đại giới đàn Văn Lang với bài kệ truyền
đăng: Sen
búp ngàn phương chầu Chúc tụng. Mùa xuân Thịnh trị đã
về đây. Năm châu vang vọng tình huynh đệ. Lắng tiếng
triều dâng, trăng sáng đầy. Đến
Làng Mai từ năm 2003. Thầy Chúc Thịnh thuộc thế hệ thứ
44 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 11 của phái Chúc
Thánh.
Chung
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1989,
tập sự xuất gia năm 2006 (17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 3 tháng 3 năm 2007 (18 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Diệu Hoàng, pháp tự Chân Chung Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Là đệ tử thứ
444 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chung Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Chúng
học (giới điều) Bảy
mươi giới trong 250 giới của vị khất sĩ, một trăm
mười lăm giới trong 348 giới của vị khất sĩ nữ, Giới
bản tân tu. Tính chất của các giới này là uy nghi. Chúng
học hoặc Chúng học pháp, tiếng Phạn là Shaiksha,
dịch tiếng Anh là Fine
Manners Offenses.
Chủng
Thiện (tên
gọi) Thượng tọa Thích Chủng
Thiện. Một vị giáo thọ xuất gia nam được Thầy Làng
Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã
Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Chủng đức
trên đường về chí Thiện. Gió quang mây tạnh ánh trăng
hiền. Châu về hợp phố an lòng đất. Non sông bình trị
hãy ngồi yên.
Chủng
tử (thuật
ngữ) Hạt giống trong tâm thức, tiềm
năng phát hiện ra các hiện tượng tâm lý, sinh lý và vật
lý. Tiếng Phạn là bija. Thức A lại gia, tàng thức,
có công năng tiếp nhận và duy trì các chủng tử. Tất
cả những học vấn, tài năng, hạnh phúc, kiến thức,
khổ đau, kinh nghiệm… của ta đều đang có mặt trong
dạng chủng tử. Các tâm hành (tâm sở) của ta, gồm có
51 loại, tích cực hay tiêu cực, hữu lậu hay vô lậu đều
có mặt trong thức A lại gia dưới dạng chủng tử, chờ
đợi điều kiện để phát khởi. Hoàn cảnh có tác dụng
đánh động những chủng tử ấy để giúp chúng phát
khởi, vì vậy ta có thể chọn môi trường tốt mà sống
để những chủng tử tốt có nhiều cơ hội phát khởi
và những chủng tử xấu không có nhiều cơ hội phát
khởi. Chủng tử có hai loại: bản hữu (sẵn có) và tân
huân (mới gieo trồng). Sự tu tập có công năng tưới tẩm
hạt giống tốt và chuyển hóa hạt giống xấu. Chánh
niệm nhận diện được sự có mặt và phát khởi của
những hạt giống tốt và xấu. Chủng tử có sáu đặc
tính:
1- Sát na diệt, luôn luôn biến chuyển trong từng sát na.
2- Quả câu hữu, có mặt cùng một lần với thức và căn, không tồn tại độc lập với thức và căn.
3- Hằng tùy chuyển, chuyển biến theo thức, không cách biệt với thức.
4- Tính quyết định, duy trì được tính chất Tích cực hay tiêu cực của mình.
5- Đãi chúng duyên, chờ đợi nhiều điều kiện để phát khởi.
6- Dẫn tự quả,
Đưa tới kết quả cùng chủng loại, như chủng tử tâm lý đưa tới kết quả tâm lý, chủng tử sinh lý đưa tới kết quả sinh lý, chủng tử vật lý đưa đến kết quả vật lý. Khi phát hiện, chủng tử trở nên hiện hành. Và hiện hành lại làm phát sinh chủng tử trở lại. Xin đọc sách Duy Biểu Học, 50 bài tụng Duy Biểu.
1- Sát na diệt, luôn luôn biến chuyển trong từng sát na.
2- Quả câu hữu, có mặt cùng một lần với thức và căn, không tồn tại độc lập với thức và căn.
3- Hằng tùy chuyển, chuyển biến theo thức, không cách biệt với thức.
4- Tính quyết định, duy trì được tính chất Tích cực hay tiêu cực của mình.
5- Đãi chúng duyên, chờ đợi nhiều điều kiện để phát khởi.
6- Dẫn tự quả,
Đưa tới kết quả cùng chủng loại, như chủng tử tâm lý đưa tới kết quả tâm lý, chủng tử sinh lý đưa tới kết quả sinh lý, chủng tử vật lý đưa đến kết quả vật lý. Khi phát hiện, chủng tử trở nên hiện hành. Và hiện hành lại làm phát sinh chủng tử trở lại. Xin đọc sách Duy Biểu Học, 50 bài tụng Duy Biểu.
Chuyên
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1985,
tập sự xuất gia năm 2007 (22 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 20 tháng 09 năm 2008 (23 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu,
pháp danh Tâm Phước Hải, pháp tự Chân Chuyên Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử
thứ 564 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chuyên Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Chuyển
hóa (điện
đường, bài hát)
1.
Một thiền đường thuộc chùa Pháp Vân, Xóm Thượng.
2. Một bài hát do Thầy Làng Mai viết lời, nhạc sĩ Trần Quốc Bảo phổ nhạc.
Nước giữ hoa tươi.
Hoa nở cho người.
Hoa thở tôi thở.
Hoa cười tôi cười.
Bên nắng hoa tươi.
Hoa mời ong lại.
Hoa vời bướm bay.
Tâm hoa kết nụ.
Dâng cho cuộc đời.
Trái ngọt ngon này.
Hóa làm thân tôi.
Uống nước giếng trong.
Tôi ngậm trong lòng.
Tôi nghe biển mặn.
Sóng vỗ mênh mông.
Thân tôi sông rộng.
Quê hương nghìn dòng.
Chung một dòng chung.
Nước đã nuôi tôi.
Thắm nhuận muôn loài.
Nước chảy tôi chảy.
Nước buồn tôi buồn.
Nước ấy hoa đây.
Khác gì thân này.
Trăm năm hồ mộng.
Cát bụi lầm vương.
Vạn pháp nương chuyển.
Thường trong vô thường.
2. Một bài hát do Thầy Làng Mai viết lời, nhạc sĩ Trần Quốc Bảo phổ nhạc.
Nước giữ hoa tươi.
Hoa nở cho người.
Hoa thở tôi thở.
Hoa cười tôi cười.
Bên nắng hoa tươi.
Hoa mời ong lại.
Hoa vời bướm bay.
Tâm hoa kết nụ.
Dâng cho cuộc đời.
Trái ngọt ngon này.
Hóa làm thân tôi.
Uống nước giếng trong.
Tôi ngậm trong lòng.
Tôi nghe biển mặn.
Sóng vỗ mênh mông.
Thân tôi sông rộng.
Quê hương nghìn dòng.
Chung một dòng chung.
Nước đã nuôi tôi.
Thắm nhuận muôn loài.
Nước chảy tôi chảy.
Nước buồn tôi buồn.
Nước ấy hoa đây.
Khác gì thân này.
Trăm năm hồ mộng.
Cát bụi lầm vương.
Vạn pháp nương chuyển.
Thường trong vô thường.
Chuyển
hóa tập khí (thuật
ngữ) Chuyển hóa những thói quen phản
ứng và hành xử tiêu cực thường gây khổ đau và đổ
vỡ cho mình và cho những người khác. Tập khí (tiếng
Phạn vasana), là năng lượng thúc đẩy ta nói, làm,
đối xử và phản ứng theo thói quen. Có khi ta biết hành
xử và phản ứng như thế sẽ đưa đến đổ vỡ và khổ
đau, nhưng ta vẫn cứ hành xử và phản ứng như thế,
bởi vì tập khí ấy rất mạnh. Sau khi hành xử và phản
ứng gây ra sự đổ vỡ, ta cương quyết tự hứa là lần
sau ta sẽ không hành xử và phản ứng như thế, nhưng lần
sau khi một tình huống tương tự xẩy ra, ta vẫn hành xử
và phản ứng theo tập khí như thường. Vì vậy ta phải
thực tập để chuyển hóa tập khí. Phương pháp thực
tập là nhận diện năng lượng tập khí khi nó bắt đầu
xuất hiện. Ta tự bảo: Đây là năng lượng tập khí
(habit
energy) đang bắt đầu xuất hiện. Ta
phải cẩn thận lắm mới được. Ta nhất định sẽ
không làm gì và nói gì khi năng lượng ấy đang có mặt.
Mỗi lần ta nhận diện được nó (nhận diện bằng năng
lượng chánh niệm - xem chánh niệm) thì nó yếu bớt
đi một chút. Ta có thể nhờ một người bạn tu giúp ta
trong việc nhận diện này. Người kia nếu có thực tập
chánh niệm sẽ có khả năng báo cho ta biết là tập khí
trong ta bắt đầu xuất hiện, và năng lượng chánh niệm
của người ấy giúp cho ta có một năng lượng chánh niệm
hùng hậu hơn để thực tập nhận diện tập khí của
ta. Ta chỉ cần nhận diện mà không cần đàn áp. Đó là
phương pháp nhận diện đơn thuần. Nhận diện được
tập khí của mình thì tập khí ấy sẽ không còn đủ
sức thao túng mình nữa.
Chuyển
Niệm (bài
tụng) Một bài tụng được sử
dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại các thiền
viện, có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh
Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Chuyển
rác thành hoa (thuật
ngữ) Chuyển phiền não thành
bồ đề. Những tâm hành như giận dữ, buồn phiền, lo
lắng, sầu khổ, kỳ thị, tuyệt vọng, v.v… là những
tâm hành tiêu cực gọi là những phiền não (tiếng Phạn:
klesa) được ví dụ với phân rác, nhờ công phu tu
học có thể được chuyển thành những tâm hành tích cực
như từ bi, an lạc, vô ưu, hỷ xả, bao dung, được ví
với những đóa hoa. Vì hoa và rác đều là những vật
hữu cơ, hoa có thể trở thành rác, rác có thể chuyển
thành phân để nuôi hoa, thì phiền não và bồ đề cũng
có tính chất hữu cơ, và phiền não cũng có thể chuyển
hóa thành bồ đề. Bồ đề là giác ngộ, giải thoát,
hạnh phúc, từ bi, trong khi phiền não là tham giận, kiêu
căng, si mê, lầm lạc. Người làm vườn có khả năng
thấy được rác là hữu cơ nên ủ rác làm phân, lấy
phân để nuôi hoa. Người tu tập thấy được phiền não
là hữu cơ nên không trốn chạy hoặc vứt bỏ phiền
não, mà biết sử dụng và quán chiếu phiền não để chế
tác tuệ giác và từ bi. Nhìn vào hoa thấy được rác,
nhìn vào rác thấy được hoa, hành giả có cái nhìn bất
nhị. Nhờ cái thấy bất nhị, hành giả không sợ hãi
phiền não và biết cách chuyển hóa phiền não thành bồ
đề. Trong đạo Bụt, ta thường nghe câu ‘phiền não tức
bồ đề’ là do thế.
Chuyển
thức (thuật
ngữ) Bảy tác dụng nhận thức dựa
trên nền tảng của tàng thức (thức A lại gia) mà phát
hiện và hoạt dụng, đó là bảy chuyển thức: nhãn thức,
nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, và
mạt na thức. Tàng thức thường được gọi là thức thứ
tám, hoặc nhất thiết chủng thức (sarvabijaka) hoặc
căn bản thức (mulavijnana). Căn bản thức là nền
tảng trên đó bảy thức kia được phát khởi.
Chức
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1984,
tập sự xuất gia năm 2008 (24 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 20 tháng 09 năm 2008 (24 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu,
pháp danh Tâm Liên Sắc, pháp tự Chân Chức Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ
563 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chức Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Sư cô Chứng Nghiêm |
Chương Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1982, tập sự xuất gia năm 2006 (24 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (25 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nguyên Anh, pháp tự Chân Chương Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 405 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Chương Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Chương
trình Phật học bốn năm trước 2002
(chương
trình đào tạo) Chương trình học
này được áp dụng trước năm 2002 và đã được trao
đổi với Hòa Thượng Thiện Siêu năm 1991. Chương trình
như sau:
- Năm thứ Nhất: Kinh - Phước Đức, Chuyển Pháp Luân, Người Áo Trắng, Thương Yêu, Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Luật - Quay Về Nương Tựa, Hai Lời Hứa, Năm Giới Quý Báu, Mười Giới, Uy Nghi Sa Di, Thi Kệ Nhật Dụng, Từng Bước Nở Hoa Sen. Luận - Phật Học Căn Bản (1), Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức, An Trú Trong Hiện Tại, Đạo Phật Áp Dụng Trong Đời Sống Hàng Ngày, Hiệp Ước Sống Chung An Lạc. Thực Tập - thiền đi, thiền ngồi, thiền trà, nghe chuông, chắp tay, dâng hương, niệm Bụt, xướng tán, tụng Giới, thiền ca. Sử - Đường Xưa Mây Trắng. Học - các ngôn ngữ Việt, Anh, Hán, Pali và Sanskrit.
- Năm thứ nhì: Kinh - Niệm Xứ, Người Bắt Rắn, Người Biết Sống Một Mình, Vô Ngã Tướng, Tâm Kinh, Trung Đạo Nhân Duyên, Giáo Hóa Người Bệnh, A Nậu La Độ, Tam Pháp Ấn, Tám Điều Giác Ngộ của Các Bậc Đại Nhân. Luật - Giới Tiếp Hiện, Giới Bồ Tát, Lục Hòa, Diệt Tránh Pháp. Luận - Phật Học Căn Bản (2), Trái Tim Mặt Trời, năm mươi bài tụng Duy Biểu, pháp số, Đạo Phật Hiện Đại Hóa, Tương Lai Thiền Học Việt Nam. Thực Tập - hóa giải nội kết, hướng dẫn thiền đi, thiền ngồi, thiền trà, ngày chánh niệm, thiền ca. Sử - Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (1), Phật Giáo Ấn Độ. Học – các ngôn ngữ Việt, Anh, Hán, Pali, Sanskrit, nghiên cứu thêm Tâm Lý Học Xã Hội, Khoa Học, Văn Minh và Văn Hóa Thế Giới.
- Năm thứ ba: Kinh - Đại Tạng Nam Truyền- so sánh với A Hàm, Bát Thiên Tụng Bát Nhã, Phật Mẫu Bảo Đức Tạng. Luật - Giới Bản Khất Sĩ Tân Tu và Truyền Thống, Tứ Phần, Yết Ma Chỉ Nam. Luận - Phật Học Căn Bản (3), Thắng Pháp Tập Yếu Tam Thập Tụng, Bát Thức Quy Củ Tụng. Thực Tập - hướng dẫn nghi lễ, pháp thoại, tổ chức khóa tu. Sử - Phật Giáo Sử Luận (2), Phật Giáo Trung Hoa, Truyền Thống Sinh Động của Thiền Tập, Phật Giáo Tây Tạng, Nhật Bản, Các Tông Phái. Học – các ngôn ngữ Việt, Anh, Hán-Hoa, Pali, Sanskrit, nghiên cứu thêm khoa học hiện đại, sinh vật học, môi trường.
- Năm thứ Tư: Kinh - Đại Tạng Bắc Truyền, Bảo Tích, Úc Già, Duy Ma, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm Tam Muội, Lăng Già. Luật - ôn lại và đi sâu thêm, nắm thật vững Hiệp Ước Sống Chung An Lạc, Giải Tỏa Nội Kết, Thiết Lập Truyền Thông, Năm Giới và Giới Tiếp Hiện. Luận - Câu Xá, Thanh Tịnh Đạo, Trung Quán (lược), Đại Trí Độ (lược), Nhiếp Đại Thừa, Dị Bộ Tông Luân Luận. Sử - Phật Giáo Sử Luận (3 và 4), Phật Giáo Hiện Đại ở các nước, tôn giáo bạn. Ngữ Lục - Lâm Tế Lục. Học – các ngôn ngữ Việt, Anh, Hán-Hoa, Pali, Sanskrit, nghiên cứu thêm khoa học hiện đại, sinh vật học, môi trường. Bi Chú - các bài học về Phật Học Căn Bản được phân phối từ các băng giảng tại Làng Mai như Nhị Đế, Tam Bảo, Nhị Chướng, Tứ Niệm Xứ, Tứ Đế, Ngũ Lực, Lục Hòa, Thất Diệt Tránh, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo, Thập Mục Ngưu Đồ, Thập Nhị Nhân Duyên, v.v…
Chương
trình Phật học bốn năm áp dụng từ 2002
(chương
trình đào tạo) Chương trình học
này được áp dụng từ sau tháng 4 năm 2002. Chương trình
như sau:
- Năm thứ Nhất: Thiền tập - Ngồi, thiền ngồi (ngồi thẳng, ngồi yên, có an lạc, không buồn ngủ, ngồi để quán chiếu); Đi, thiền đi (thảnh thơi, vững chãi, đi trong Tịnh Độ); Nằm, thiền nằm (buông thư, nhận diện cơ thể và các phần trong cơ thể); Ăn, thiền ăn (hiện pháp, năm quán); Lạy, thiền lạy (5 lạy); Chấp tác, thiền chấp tác (có thực tập an trú, xây dựng tình huynh đệ, tinh thần làm việc chung, tinh thần đồng đội); Nói, thiền nói (học phát biểu, pháp đàm, soi sáng, làm mới, họp chúng); Viết, thiền viết (tập viết thư cho Thầy, cho sư anh/sư chị, cho chúng, cho cha mẹ, cho gia đình, tưới tẩm hạt giống tốt); Và làm thị giả, học xướng tán, hô canh, tổ chức thiền trà, hát thiền ca. Kinh Văn - Niệm Xứ, Quán Niệm Hơi Thở, Diệt Trừ Phiền Giận, Tam Di Đề (băng và sách). Luật - Tam Quy (trong băng Công Phu Nở Đóa Sen Ngàn Cánh và băng giảng kinh Người Áo Trắng), Hai Lời Hứa, Năm Giới, Mười Giới, Thi Kệ Nhật Dụng, sách Từng Bước Nở Hoa Sen, và Bốn Mươi Mốt Thiên Uy Nghi (trong sách Bước Tới Thảnh Thơi). Luận - Trái Tim Của Bụt, Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức, An Trú Trong Hiện Tại, Đạo Bụt Áp Dụng Trong Đời Sống Hằng Ngày. Sử - Đường Xưa Mây Trắng (phần 1), những phép thực tập của Làng Mai (1), Công Phu Nở Đóa Sen Ngàn Cánh (1), Tam Di Đề (1), Truyền Thống Sinh Động Của Thiền Tập (1), Đại Tạng Nam Truyền (1), Đại Tạng Bắc Truyền (1), Bát Thức Quy Cũ Tụng (1), Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu (1).
- Năm thứ Nhì: Đường Xưa Mây Trắng (2), Những Phép Thực Tập của Làng Mai (2), Công Phu Nở Đóa Sen Ngàn Cánh (2), Tam Di Đề (2), Truyền Thống Sinh Động Của Thiền Tập (2), Đại Tạng Nam Truyền (2) (so sánh với A Hàm), Đại Tạng Bắc Truyền (2) (lịch sử tư tưởng Phật giáo Đại Thừa), Bát Thức Quy Cũ Tụng (2), Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu (2). Năm thứ Ba: Nhiếp Đại Thừa Luận (1), Trung Quán Luận (1), Đại Tạng Nam Truyền (tiếp theo) (so sánh với A Hàm) Đại Tạng Bắc Truyền (tiếp theo), (lịch sử tư tưởng Phật giáo Đại Thừa), Lâm Tế Lục, Giới Lớn, Giới Tiếp Hiện, hướng dẫn tổ chức khóa tu, ngày quán niệm, viết thông báo, xây dựng tăng thân địa phương. Năm thứ tư: Nhiếp Đại Thừa Luận (2), Trung Quán Luận (2), Đại Tạng Bắc Truyền (3), Dị Bộ Tông Luân Luận, thiền sư Tăng Hội, tâm lý học, xã hội học, kinh tế học, văn minh Trung Quốc, văn minh Ấn Độ, văn minh Hy Lạp.
Con
Cá (gia
đình) Nhóm 6 vị cùng được xuất
gia ngày 11 tháng 12 năm 1993 tại Làng Mai. Gia đình Con Cá
gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Thành, Chân Thoại
Nghiêm, Chân Pháp Dụng, Chân Pháp Ứng, Chân Định Nghiêm,
Chân Tuệ Nghiêm.
Con
Chim (gia
đình) Nhóm 4 vị cùng được xuất
gia ngày 24 tháng 05 năm 1994 tại Làng Mai. Gia đình Con Chim
gồm các thầy và các sư cô: Chân Pháp Truyền, Chân Pháp
Nghiêm, Chân Pháp Hướng, Chân Bích Nghiêm.
Con
đang làm gì đó (thoại
đầu) Một câu Thầy Làng Mai hay hỏi
thiền sinh khi gặp vị đó đang làm việc. Đây thật sự
là một tiếng chuông chánh niệm hay một thoại đầu chứ
không phải là một câu hỏi. Nếu vị thiền sinh trả lời
‘con đang nhặt rau’ hoặc ‘con đang dọn dẹp
thiền đường’ thì vị thiền sinh ấy không trả lời
đúng câu hỏi. Nếu câu trả lời là ‘con đâu có làm
gì đâu’ hoặc ‘con đang trở về với hơi thở
chánh niệm’ thì có thể được chấp nhận. Một nụ
cười hoặc một câu ‘cảm ơn thầy’ cũng có thể
được chấp nhận. Câu hỏi này có mục đích giúp thiền
giả trở về với sự thực tập của mình và đi sâu vào
sự quán chiếu trong khi chấp tác. Xem Thoại đầu.
Con
đi cho cha (thuật
ngữ) Thực tập đi từng bước
an lạc và thảnh thơi, không phải chỉ có lợi lạc cho
người hành giả mà còn lợi lạc cho cha mẹ trong ta. Có
thể trong quá khứ cha mẹ ta chưa có cơ hội thực tập
thiền đi, vì vậy bước một bước thảnh thơi an lạc
cũng là bước một bước cho tổ tiên, cho cha mẹ, cho
thầy, cho em và cho mọi người thân.
Con đường của Bụt - những đóng góp của Phật giáo cho một nền đạo đức toàn cầu (thuật ngữ) Chủ đề của khoá an cư kiết Đông 2008-2009 từ ngày 19.11.2008 đến 18.02.2009 tại Làng Mai. Tiếng Anh là The Path of the Buddha - Buddhist Contributions to a Global Ethics.
Con đường của Bụt - những đóng góp của Phật giáo cho một nền đạo đức toàn cầu (thuật ngữ) Chủ đề của khoá an cư kiết Đông 2008-2009 từ ngày 19.11.2008 đến 18.02.2009 tại Làng Mai. Tiếng Anh là The Path of the Buddha - Buddhist Contributions to a Global Ethics.
Con
Đường Chuyển Hóa (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối, Hoa Kỳ ấn hành lần đầu năm 1990. Được dịch ra
nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần ở nhiều
nước trên thế giới. Bản dịch tiếng Anh lấy tựa đề
Transformation and Healing. Sách giảng giải về Kinh
Niệm Xứ, một kinh căn bản về thiền tập của đạo
Bụt Nguyên Thỉ, và đưa ra những phương pháp thực tập
cụ thể đưa tới chuyển hóa và trị liệu.
Con
đường Giác ngộ (lễ lược) Tên của chuyến
hành hương thăm viếng Phật tích trong khuôn khổ chuyến
hoằng pháp Ấn Độ 2008. Chuyến hành hương bắt đầu
từ ngày 19 tới ngày 29.10.2008. Thành viên của chuyến đi,
ngoài tăng thân xuất sĩ Làng Mai còn có 300 thiền sinh tới
từ hơn 30 quốc gia về sum họp như một cuộc đoàn tụ
đại gia đình. Tuy gọi là chuyến hành hương nhưng thực
sự là một khoá tu lưu động vì có thiền toạ, thiền
hành, pháp thoại, ăn cơm chánh niệm… Sư Ông nói pháp
thoại về Tứ Diệu Đế thế kỷ 21 tại Vườn Lộc
Uyển; một ngày chánh niệm tại Bồ Đề Đạo Tràng,
pháp thoại Sư Ông với đề tài Thảnh thơi ở bất cứ
nơi nào (Be Free where you are); đi thiền hành và ngồi
thiền trên khu đồi gần tháp Sujata bên bờ Ni Liên
Thuyền; ngồi thiền và đi thiền hành tại Trúc Lâm Tịnh
Xá; viếng thăm Đại học Nalanda, pháp thoại Sư Ông với
đề tài Thân Bụt – Tâm Bụt (Buddha body – Buddha
mind); trọn một ngày sinh hoạt chánh niệm trên Núi
Thứu (ngồi thiền ngắm mặt trời lên, ăn sáng trong
chánh niệm, lễ truyền Ba quy Năm giới và giới Tiếp
Hiện, ăn trưa, pháp đàm, thiền toạ ngắm mặt trời lặn
và thiền hành xuống núi).
Con Đường Giải Thoát (khóa tu) Tên một khóa tu 21 ngày được tổ chức tại tiểu bang Vermont, Hoa Kỳ năm 1998. Tiếng Anh là The Path of Emancipation.
Con Đường Giải Thoát (khóa tu) Tên một khóa tu 21 ngày được tổ chức tại tiểu bang Vermont, Hoa Kỳ năm 1998. Tiếng Anh là The Path of Emancipation.
Con
Khỉ (gia
đình) Gồm sư cô Chân Tịnh Nghiêm,
Chân Hương Nghiêm và thầy Chân Pháp Tạng, cùng được
xuất gia ngày 31 tháng 12 năm 1992 tại Làng Mai.
Con
Nghé Nhỏ (cơ sở) Quán sách tại Xóm Mới.
Con
người thật (thuật
ngữ) Tiếp xúc với con người
thật của ta, không bị thời gian và không gian khuôn khổ
và khống chế, đó là mục đích của thiền tập. Con
người đó được thiền tổ Lâm Tế gọi là vô vị chân
nhân, con người thật không cần xác định vị trí trong
khung thời gian, con người thật không sinh diệt của bản
môn.
Con
Sư Tử (gia
đình) Nhóm 4 vị cùng được xuất
gia ngày 27 tháng 12 năm 1990 tại Làng Mai. Gia đình Con Sư
Tử gồm các thầy và sư cô: Chân Bảo Nghiêm, Chân Nguyện
Hải, Chân Pháp Đăng, Chân Vô Ngại.
Cổ
Đạo Bạch Vân
(sách)
Ấn bản tiếng Hoa của tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng
do nhà Trung Quốc Hoa Kiều Xuất Bản Xã ấn hành năm 1999
tại Bắc Kinh. Địa chỉ nhà xuất bản: số 12, đường
An Định, khu Triêu Dương, Bắc Kinh.
Cổ
Pháp (lễ
lược) Tên một đại giới đàn được
tổ chức tại Làng Mai từ ngày 12 đến 17 tháng 1 năm
2006 trong khóa An Cư Kiết Đông 2005-2006.
Cổ
Phật khất thực (pháp môn)
Những buổi các vị xuất gia ôm bình bát đi khất thực
theo kiểu Tăng đoàn của Bụt ngày xưa. Tăng đoàn Làng
Mai đã có những buổi cổ Phật khất thực ở San Diego,
Los Angeles, San Jose, Huế, Bình Định, Hóc Môn, Bảo Lộc,
v.v…
Công
án (thuật
ngữ) Xem Thoại đầu.
Công
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1982,
tập sự xuất gia năm 2008 (26 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 08 tháng 03 năm 2009 (27 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu,
pháp danh Tâm Nhật Kim, pháp tự Chân Công Nghiêm. Sư cô
thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Vàng. Là đệ tử thứ
604 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Công Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Cộng
sản thứ thiệt (thuật
ngữ) Trong buổi giảng ngày 18 tháng
03 năm 2005 tại Học viện Chính trị Hồ Chí Minh, Thầy
Làng Mai có nói: “Chúng
tôi ở Làng Mai không ai có trương mục ngân hàng riêng,
không ai có xe riêng, điện thoại riêng, nhà cửa riêng,
tất cả các tiện nghi của đời sống đều là của
chung. Chúng tôi là Cộng sản thứ thiệt”.
Cơ
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của
Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm
1936, tập sự xuất gia năm 2001 (65 tuổi), thọ giới Sa Di
Ni ngày 7 tháng 2 năm 2002 (66 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm –
Làng Mai, pháp danh Tâm Tín Huệ, pháp tự Chân Cơ Nghiêm.
Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Thốt Nốt. Thọ giới
Thức Xoa Ma Na năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế. Thọ
giới lớn ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại giới đàn
Đoàn Tụ. Là đệ tử thứ 129 của Sư Ông Làng Mai. Sư
cô Cơ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và
thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Creating
True Peace (sách)
Một cuốn sách nguyên bản tiếng Anh của Thầy Làng Mai
xuất bản năm 2003 tại Hoa Kỳ do nhà Free Press, và tại
Anh do Rider ấn hành.
Cry
of Viet Nam (sách)
Một tập thơ dịch sang tiếng Anh của Thầy Làng Mai xuất
bản năm 1966 tại Hoa Kỳ do nhà Unicorn ấn hành.
CTC
(chức
vụ) Xem Ban chăm sóc.
Cultivating
The Mind of Love (sách)
Một cuốn sách nguyên bản tiếng Anh của Thầy Làng
Mai do nhà Parallax xuất bản năm 1996 tại Hoa Kỳ. Được
dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước
trên thế giới.
Cúc
cu… Thầy đây (giai
thoại) Một năm nọ, trong khóa An Cư
Kiết Đông tại tu viện Lộc Uyển. Một buổi chiều Thầy
cùng vị thị giả đang đi dạo quanh tu viện, bỗng Thầy
sai vị thị giả đi lấy đồ cho Thầy. Vị thị giả
(một sư cô trẻ) đi một hồi rồi quay trở lại thì
không thấy Thầy đâu cả. Sư cô đi tới đi lui, chạy
lên xóm trên (xóm quý thầy ở) rồi chạy xuống xóm dưới
(xóm quý sư cô ở), gặp ai sư cô cũng hỏi thăm xem có
ai thấy Thầy đâu không, nhưng không ai biết Thầy đang ở
đâu. Trời đã bắt đầu tối và sư cô càng lúc càng lo
lắng hơn. Rồi khi vừa đi ngang qua thư viện của xóm quý
thầy ở, sư cô bỗng nghe có tiếng: “Cúc cu… Thầy
đây!” Sư cô thở phào nhẹ nhõm. Thì ra là Thầy đã
ở trong thư viện đọc sách. Thầy Làng Mai luôn luôn bước
từng bước chân nhẹ nhàng như hôn trên mặt đất như
vậy đó, nhưng nếu chỉ cần sơ ý một chút thôi là ta
có thể bị mệt nhoài mà vẫn không theo kịp Thầy!
Cúc Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Hòa Lan. Thọ giới Sa Di Ni ngày 26 tháng 10 năm
2003 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp tự Chân Cúc
Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Cẩm Lai. Là đệ
tử thứ 193 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cúc Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Cung
Nghiêm (tên
gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ
của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh
năm 1973, tập sự xuất gia năm 2001 (28 tuổi), thọ giới
Sa Di Ni ngày 7 tháng 2 năm 2002 (29 tuổi) tại chùa Từ
Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Nguyên Mỹ, pháp tự Chân
Cung Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Thốt Nốt.
Thọ giới thức xoa ma na năm 2004 trong đại giới đàn Lâm
Tế. Thọ giới lớn ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại
giới đàn Đoàn Tụ. Nhận truyền đăng năm 2009 trong đại
giới đàn Mùa Sen Mới với bài kệ truyền đăng:
Sen vàng Cung kính dâng lên.
Muôn ngàn cõi Bụt trang Nghiêm gọi mời.
Đóa sen tuệ giác hồng tươi.
Theo chân Điều Ngự độ người trầm luân.
Là đệ tử thứ 137 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cung Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Sen vàng Cung kính dâng lên.
Muôn ngàn cõi Bụt trang Nghiêm gọi mời.
Đóa sen tuệ giác hồng tươi.
Theo chân Điều Ngự độ người trầm luân.
Là đệ tử thứ 137 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cung Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Cư
Nghiêm (tên
gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng
Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1980,
tập sự xuất gia năm 2007 (27 tuổi), thọ giới Sa Di Ni
ngày 17 tháng 2 năm 2008 (28 tuổi) tại tu viện Bát Nhã,
pháp danh Tâm Phước Quảng, pháp tự Chân Cư Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Lê. Là đệ tử thứ 489
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cư Nghiêm thuộc thế hệ thứ
43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu
Quán.
Cư
sĩ
(thuật ngữ) xem
Xuất sĩ
Cửa
Tùng Đôi Cánh Gài (sách)
Một tập truyện ngắn của Thầy Làng Mai. Gồm các
truyện Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, Tùng, Giọt Nước Cánh
Chim và Một Bó Hoa Đồng. Nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ
ấn hành năm 1993. NXB Văn Hóa Sài Gòn ấn hành tại Việt
Nam năm 2007. Được dịch sang nhiều thứ tiếng và xuất
bản ở nhiều nước.
Cửa
vô sinh mở rồi (thuật
ngữ) Ta có thể tiếp xúc với
bản môn (xem bản môn) hoặc niết bàn, ngay trong
giây phút hiện tại và ngay nơi chỗ ta đang ngồi, bởi
vì cánh cửa của bản môn, cánh cửa của niết bàn luôn
luôn mở ra. Vô sinh là niết bàn, là tự tính của các
pháp. Các pháp vốn không sinh, không diệt, không tới,
không đi, không một, không khác, không có, không không. Vô
sinh là không sinh, đại diện cho bảy cái không khác. Sống
sâu sắc trong giây phút hiện tại, ta tiếp xúc được
sâu sắc thế giới hiện tượng, thế giới bản môn, và
vì vậy có cơ duyên tiếp xúc với tự tính vô sinh, tự
tính niết bàn vốn là nền tảng của mọi hiện tượng.
Thế giới hiện tượng mới nhìn thì như có sinh - diệt,
có có - không, nhưng nếu quán chiếu cho sâu sắc ta có
thể tiếp xúc với tính không sinh - diệt, không có -
không của nó.
Cương Kỷ (tên
gọi) Một vị đệ tử lớn
của thiền sư Nhất Định. Tổ sinh năm 1810 tại Quảng
Trị, năm 24 tuổi tập sự xuất gia một năm, năm sau thọ
giới sa di pháp danh là Hải Thiệu. Năm 31 tuổi, Tổ được
thọ giới lớn, sau đó theo thầy là Tổ Nhất Định lên
núi Dương Xuân lập am An Dưỡng. Năm 35 tuổi được Tổ
Nhất Định truyền đăng phó pháp với bài kệ:
Cương Kỷ kinh quyền bất chấp phương.
Tùy cơ ứng dụng thiên tư lương.
Triêu triêu tương thức nan tầm tích.
Nhật nhật xuyên y nghiết phạn thường.
Sau khi tổ Nhất Định viên tịch, tổ xây dựng thảo am thành chùa Từ Hiếu với sự ủng hộ của các quan thái giám. Năm 1848 vua Tự Đức ban danh hiệu “Sắc Tứ Từ Hiếu Tự” cho chùa. Năm 1848 dưới triều vua Thành Thái, tổ trùng tu lại chùa Từ Hiếu. Làm trụ trì chùa Từ Hiếu, tổ có phát mười lăm đại nguyện như sau:
1. Thân hình dị tục, bất tơ bạch y.
2. Khẩu thường thanh tịnh, bất thuyết thị phi.
3. Ý hành bình chính, vô gián tôn ti.
4. Tâm thường nhẫn nhục, xả tham sân si.
5. Ngọ trung nhất thực, bất quá hậu kỳ.
6. Căn trì tế hạnh, bất thất uy nghi.
7. Phạm vũ lao cố, Phật điện quang huy.
8. Cư hằng an ổn, nhật dụng vô khuy.
9. Đệ tử chúng đẳng, tai nạn vĩnh ly.
10. Đàn na thí chủ, phước thọ khương hy.
11. Oán thân bình đẳng, đồng phó liên trì.
12. Tịch diệt thần chí, hoạch dự tiên tri.
13. Đoan nhiên tọa hóa, chính lý tây quy.
14. Bất sinh bất diệt, liễu chứng vô vi.
15. Tảo thành Phật đạo, quảng độ quần mê.
Cương Kỷ kinh quyền bất chấp phương.
Tùy cơ ứng dụng thiên tư lương.
Triêu triêu tương thức nan tầm tích.
Nhật nhật xuyên y nghiết phạn thường.
Sau khi tổ Nhất Định viên tịch, tổ xây dựng thảo am thành chùa Từ Hiếu với sự ủng hộ của các quan thái giám. Năm 1848 vua Tự Đức ban danh hiệu “Sắc Tứ Từ Hiếu Tự” cho chùa. Năm 1848 dưới triều vua Thành Thái, tổ trùng tu lại chùa Từ Hiếu. Làm trụ trì chùa Từ Hiếu, tổ có phát mười lăm đại nguyện như sau:
1. Thân hình dị tục, bất tơ bạch y.
2. Khẩu thường thanh tịnh, bất thuyết thị phi.
3. Ý hành bình chính, vô gián tôn ti.
4. Tâm thường nhẫn nhục, xả tham sân si.
5. Ngọ trung nhất thực, bất quá hậu kỳ.
6. Căn trì tế hạnh, bất thất uy nghi.
7. Phạm vũ lao cố, Phật điện quang huy.
8. Cư hằng an ổn, nhật dụng vô khuy.
9. Đệ tử chúng đẳng, tai nạn vĩnh ly.
10. Đàn na thí chủ, phước thọ khương hy.
11. Oán thân bình đẳng, đồng phó liên trì.
12. Tịch diệt thần chí, hoạch dự tiên tri.
13. Đoan nhiên tọa hóa, chính lý tây quy.
14. Bất sinh bất diệt, liễu chứng vô vi.
15. Tảo thành Phật đạo, quảng độ quần mê.
Sc Cương Nghiêm |
Cứu Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2008 (20 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 08 tháng 03 năm 2009 (21 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Thuận Giáo, pháp tự Chân Cứu Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Vàng. Là đệ tử thứ 613 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Cứu Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét