Kế
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2007
(19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 17 tháng 2 năm 2008 (20
tuổi) tại tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Quang Tiến, pháp
tự Chân Kế Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Lê. Là đệ tử thứ 502 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Kế
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Là chị em sinh đôi với
sư cô Hữu Nghiêm.
Kệ
Kiến giải
(thuật
ngữ)
Bài kệ mà các vị tập sự giáo thọ trình lên trước
Sư Ông và đại chúng trong lễ nhận truyền đăng, trình
bày cái thấy và thành quả của sự tu học của mình
trước khi được Sư Ông trao kệ và truyền đăng. Tiếng
Anh là
Insight Gatha.
Khả
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2005
(17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 (18
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Hỷ, pháp
tự Chân Khả Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hải Đường. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa
Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử
thứ 378 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khả Nghiêm thuộc thế
hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Khai
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Thọ giới Sa Di Ni
ngày 03 tháng 08 năm 1994 tại chùa Cam Lộ– Làng Mai, pháp
tự Chân Khai Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Sồi. Là đệ tử thứ 30 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khai
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Khải
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1975, tập sự xuất gia năm 2002
(27 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 07 tháng 07 năm 2003 (28
tuổi) tại chùa Đình Quán - Hà Nội, pháp danh Tâm Quảng
Nhân, pháp tự Chân Khải Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình
xuất gia Cây Vô Ưu. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2005
trong đại giới đàn Cổ Pháp. Thọ giới lớn ngày 18
tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn Văn Lang. Nhận truyền đăng
năm 2010 trong đại giới đàn Thủy Tiên tại Thái Lan với bài kệ truyền
đăng:
Khải hoàn này khúc đoàn viên
Hoa cười ngõ hạnh trang nghiêm đón chào
Thoát vòng, tung lưới bay cao
Thong dong quê cũ, anh hào đất thiêng.
Là đệ tử
thứ 185 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khải Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Khán
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2005
(17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 1 năm 2006 (18
tuổi) tại tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Phương,
pháp tự Chân Khán Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Hồng Giòn. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu
viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu
trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 346
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khán Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Khanh
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2005
(17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 (17
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Bối Trì, pháp
tự Chân Khanh Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hướng Dương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu
viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu
trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 304
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khanh Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Khánh
Hỷ (tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nam, thầy Ananda Maitri. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2003 trong đại giới đàn
Đã Về Đã Tới với bài kệ truyền đăng như sau: Nhịp
chân Khánh Hỷ vui từng bước. Tịnh độ trần gian tự
hiển bày. Sen vàng phơi cánh trong hồ biếc. Bụi hồng
rừng tía cũng nơi đây.
Khánh
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt
Nam, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1969, tập sự xuất gia năm
1997 (28 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 4 tháng 02 năm 1998
(29 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm
Nghiêm Nhã, pháp tự Chân Khánh Nghiêm. Sư cô thuộc gia
đình xuất gia Cây Táo. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2000.
Thọ giới lớn ngày 09 tháng 12 năm 2000 trong đại giới
đàn Năm 2000. Nhận truyền đăng năm 2006 trong đại giới
đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng: Chuông
vàng Khánh bạc trang Nghiêm. Dựng xây nước Bụt ngay miền
nhân gian. Sông xưa bến nước bình an. Vườn xưa trúc tím
hoa vàng vẫn xinh.
Là đệ tử thứ 60 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khánh
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Khắp
Chốn Thảnh Thơi (sách)
Một cuốn sách nguyên bản tiếng Anh, phiên tả một bài
giảng của Thầy Làng Mai trong một nhà tù tại tiểu bang
Virginia, Hoa Kỳ. Xem Be
Free Where You Are.
Khắp
Trời Hoa Mai Nở (sách)
Một cuốn sách trích đăng các bài viết của Thầy Làng
Mai lấy từ Lá Thư Làng Mai số 26, in tại Việt Nam năm
2003.
Khế
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người
Campuchia, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1971, tập sự xuất gia
năm 1999 (28 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 04 tháng 12 năm
1999 (28 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh
Peaceful Practice Of The Heart, pháp tự Chân Khế Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Anh Đào. Thọ giới Thức
Xoa Ma Na năm 2002. Thọ giới lớn ngày 09 tháng 01 năm 2003
trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới. Nhận truyền đăng
năm 2008 trong đại giới đàn Thanh Lương Địa với bài
kệ truyền đăng:
Nâu
sồng Khế hợp cơ duyên.
Uy nghi tháp cổ trang Nghiêm nẻo
về.
Trời tâm vọng tiếng chuông khuya.
Năm năm pháp vũ
bồ đề càng xanh.
Là đệ tử thứ 90 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khế
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Khiết
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam,
quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1979, tập sự xuất gia năm
2005 (26 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005
(26 tuổi) tại Chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm
Diệu Hương, pháp tự Chân Khiết Nghiêm. Sư cô thuộc gia
đình xuất gia Cây Hướng Dương. Thọ giới Thức xoa ma
na năm 2008 tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương
Địa. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại Làng
Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ
252 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khiết Nghiêm thuộc thế
hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Khoa
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1984, tập sự xuất gia năm 2005
(21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (23
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Quảng Hòa, pháp tự
Chân Khoa Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm
Hương. Là đệ tử thứ 417 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô
Khoa Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và
thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Khóa
tu đặc biệt (khóa
tu)
Những khóa tu được Tăng thân Làng Mai tổ chức dành
riêng cho các giới chuyên nghiệp. Sau đây là danh sách
những khóa tu đặc biệt đã tổ chức từ năm 1987. 1.
Khóa
tu cho Văn Nghệ Sĩ Hoa Kỳ:
tại Ojai Foundation, Santa Barbara, California, Hoa Kỳ từ ngày
01 đến ngày 12 tháng 05 năm 1987. 2.
Khóa
tu cho Văn Nghệ Sĩ Việt Nam: tại
Camp Swig, miền Nam California, Hoa Kỳ từ ngày 13 đến ngày
17 tháng 05 năm 1987. 3.
Khóa
tu cho giới phụ trách an ninh, cho giới cảnh sát, cai tù,
chưởng khế và luật sư, v.v…
(tên khóa tu này là Protecting
and Serving without Stress and Fear):
tại Green Lake, tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ từ ngày 24 đến
ngày 29 tháng 08 năm 2003. Khóa tu này không có tụng kinh,
bái sám, đốt hương để tránh hình thức tôn giáo, nhưng
cuối khóa tu đã có rất nhiều người nhận lãnh ba quy
và năm giới bằng một văn bản không có danh từ Phật
giáo. 4.
Khóa
tu cho Dân Biểu Quốc Hội: tại
Bolgen Center, gần Washington D.C. tại tiểu bang Virgina, Hoa
Kỳ từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 09 năm 2003. 5.
Khóa
tu cho Cựu Chiến Binh:
tại Omega Institute, tiểu bang New York, Hoa Kỳ từ ngày 05
đến ngày 10 tháng 06 năm 1991. 6.
Khóa
tu dành cho những nhà bảo vệ sinh môi:
tại Ojai Foundation, Santa Barbara, tiểu bang California, Hoa Kỳ
từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 03 năm 1991. 7.
Khóa
tu dành cho giới diễn viên điện ảnh, giám đốc sản
xuất phim ảnh (Retreat for Entertainers):
tại tu viện Lộc Uyển từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 03
năm 2004. 8.
Khóa
tu cho các nhà tâm lý trị liệu: tại
Rocky Mountains, Colorado, Hoa Kỳ năm 1989; tại Pháp từ ngày
12 đến ngày 15 tháng 05 năm 1990; tại Đức từ ngày 02
đến ngày 04 tháng 10 năm 1992; và tại Hoa Kỳ lần thứ
hai từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 1993. 9.
Khóa
tu cho các nhà doanh thương:
tại Làng Mai năm 1999. 10.
Khóa
tu cho người da màu (Colors of Compassion):
tại tu viện Lộc Uyển từ ngày 24 đến ngày 28 tháng 03
năm 2004, từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 9 năm 2005 và từ
ngày 19 đến 23 tháng 9 năm 2007. 11.
Khóa
tu cho giới giáo chức:
tại Oberlethe, Đức Quốc từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 5
năm 2005. 12.
Khóa
tu cho những người Do Thái và Palestinian: tổ
chức tại Làng Mai mùa hè 2003 và những mùa hè sau đó.
13.
Khóa
tu cho Gia Đình Phật Tử:
tại Tu Viện Kim Sơn, Watsonville, California từ ngày 27 đến
ngày 28 tháng 04 năm 1991; tại chùa Vạn Hạnh, San Diego,
California từ ngày 07 đến ngày 12 tháng 10 năm 1997; tại
Đạo Tràng Thanh Sơn, Vermont từ ngày 01 đến ngày 05 tháng
10 năm 1999. 14.
Khóa
tu cho giới bác sĩ, y tá, cán sự xã hội (Retreat for
Helping Professionals):
tại Madona Center, Watsonville, California từ ngày 06 đến
ngày 10 tháng 5 năm 1991; tại Luân Đôn ngày 04 tháng 07 năm
1993.
15.
Đối
Thoại Tôn Giáo (Religious Dialogue):
tại La Casa de Maria, Santa Barbara, California từ ngày 05 đến
ngày 10 tháng 04 năm 1987; và tại Tutxing Academie, Đức Quốc
từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 10 năm 1991. 16.
Khóa
tu cho thiếu nhi: tại
Karmoling, Pháp từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 4 năm 1993,
tại La Casa de Maria, Santa Barbara, California, Hoa Kỳ vào
tháng tư năm 1987. 17.
Khóa
tu cho các nhà Não Bộ Thần Kinh Học: tại
Làng Mai từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 08 năm 2006.
Khóa
tu hai mươi mốt ngày
(khóa
tu)
Cứ hai năm một lần, từ ngày 01 đến ngày 21 tháng 06,
tại Làng Mai lại có một khóa tu 21 ngày dành cho những
vị giáo thọ xuất gia và tại gia và những thiền sinh đã
có nhiều kinh nghiệm tu học. Năng lượng của các khóa
tu này thường rất hùng hậu, những bài giảng dạy và
công phu tu tập được có dịp đi rất sâu, hơn hẳn
những khóa tu bảy ngày. (Không phải hùng hậu bằng ba mà
bằng bảy lần). Khóa
đầu tiên
có chủ đề Kinh
Niệm Xứ và Tâm lý Học Phật Giáo – Tìm Lại Tự Do
(The
Satipatthana Sutta and Buddhist Psychology – Reclaiming our True
Freedom),
được tổ chức năm 1990; khóa
thứ hai
có chủ đề Thiền
Quán Chiếu Trong Truyền Thống Đại Thừa
(Vipassana
in the Mahayana tradition),
được tổ chức năm 1992. Các bài giảng của khóa này đã
được phiên ấn thành sách và được nhà Parallax xuất
bản dưới nhan đề Cultivating
the Mind of Love
(nuôi dưỡng Tâm Bồ Đề); khóa
thứ ba
có chủ đề Trái
Tim Của Bụt
(The
Heart of the Buddha’s Teaching),
được tổ chức năm 1996, đi sâu vào Phật Pháp căn bản.
Những bài giảng của khóa này đã được phiên ấn thành
sách và được nhà Parallax ấn hành dưới nhan đề The
Heart of the Buddha’s teaching
(Trái Tim Của Bụt);
khóa thứ tư (được
tổ chức tại trường đại học St. Michael’s College ở
tiểu bang Vermont, Hoa Kỳ) có chủ đề Con
đường Giải Thoát
(The
Path of Emancipation),
đi sâu vào sự nghiên cứu Kinh An Ban Thủ Ý tụng bản
Pali. Những bài giảng của khóa tu này cũng đã được
nhà xuất bản Parallax in lại thành sách dưới nhan đề
The
Path of Emancipation;
khóa
tu thứ năm có
chủ đề Đôi
Mắt Của Bụt (The
Eyes of the Buddha),
được tổ chức năm 2000 tại Làng Mai; khóa
tu thứ sáu
có chủ đề Bàn
Tay Của Bụt (The
Hand of the Buddha),
được tổ chức năm 2002; khóa
tu thứ bảy
có chủ đề Bàn
Chân Của Bụt
(The
Feet of The Buddha),
được tổ chức năm 2004; khóa
tu thứ tám
có chủ đề là Hơi
Thở Của Bụt
(The
Breath of The Buddha),
được tổ chức năm 2006, đi sâu vào nghiên cứu Kinh An
Ban Thủ Ý trong các tụng bản chữ Hán; và khóa
tu thứ chín có
chủ để Con
đường của Bụt - Những đóng góp của Phật giáo cho
một nền đạo đức toàn cầu
(The
Path of the Buddha - Buddhist Contributions to a Global Ethics), tổ
chức năm 2009.
Tất
cả những khóa giảng này đều có thể tải xuống từ
mạng Làng Mai.
Khóa
tu mùa hè
(khóa
tu)
Một khóa tu đặc biệt của Làng Mai, diễn ra hàng năm từ
khoảng đầu tháng 7 và kéo dài 4 tuần. Tiếng Anh là
Summer
Opening.
Các bạn thiền sinh về tu học trong khóa tu mùa hè rất
đa dạng về lứa tuổi, trình độ, quốc tịch, ngôn ngữ,
từ các em bé sơ sinh cho tới người người già, các cặp
vợ chồng, các gia đình. Vì vậy nên khóa tu này có đủ
các chương trình tu tập cho từng lứa tuổi như chương
trình trẻ em, chương trình thanh thiếu niên, chương trình
cho người trẻ. Riêng đồng bào người Việt được dành
riêng ở tại Xóm Trung. Các bài pháp thoại của Thầy
Làng Mai được luân phiên nói bằng tiếng Anh, tiếng Pháp
và tiếng Việt và được thông dịch trực tiếp ra các
ngôn ngữ khác. Mỗi tuần của khóa tu diễn ra một lễ
hội: Lễ Giỗ Tổ Tiên (xem Lễ
Giỗ Tổ Tiên),
Lễ Bông Hồng Cài Áo (xem Bông
Hồng Cài Áo),
Lễ Trăng Rằm (xem Lễ
Trăng Rằm),
Lễ hội Hòa Bình (xem Lễ
Hòa Bình).
Mỗi tuần của khóa tu, Làng đón khoảng 1000 người tới
từ hơn 40 quốc gia. Một ngày trong khóa tu được chọn
là Ngày
của Ngày Hôm Nay (Today’day).
Vào ngày đó đại diện của mỗi quốc gia được mời
lên trước đại chúng và tuyên bố “Con là vua (nữ
hoàng) của nước….. Con tuyên bố hôm nay là ngày của
Ngày Hôm Nay!” (I
am the King (Queen) of…. I declare that today is Today’s day!)
Khóa
tu tiếng Pháp
(khóa
tu) Một
khóa tu thường niên của Làng Mai, dành riêng cho những
người nói tiếng Pháp. Khóa tu tiếng Pháp đầu tiên diễn
ra năm 1999.
Sc Khoan Nghiêm |
Khôi
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Singapore, quốc
tịch Singapore, sinh năm 1980, tập sự xuất gia năm 2005
(25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 1 năm 2006 (26
tuổi) tại chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm Mật
Niệm, pháp tự Chân Khôi Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình
xuất gia Cây Hồng Giòn. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008
tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại Làng Mai trong đại
giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 310 của Sư Ông
Làng Mai. Sư cô Khôi Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của
tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Không
Diệt, Không Sinh - Đừng Sợ Hãi (sách)
Một cuốn sách dịch từ nguyên bản tiếng Anh No
Death, No Fear của
Thầy Làng Mai, do nhà Parallax ấn hành, được nhà Lá Bối
xuất bản năm 2004 tại Hoa Kỳ.
Không
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai, tên Cao Ngọc
Phượng. Sinh năm 1938, người tỉnh Bến Tre, Việt Nam.
Theo Thầy Làng Mai học đạo từ tháng 11 năm 1959 dưới
hình thức cư sĩ tập sự xuất gia, giữ 14 giới Tiếp
Hiện Xuất Gia từ tháng 2 năm 1966 với pháp danh Tâm Không
và pháp tự Chân Không. Cô là một trong 6 vị đệ tử
đầu tiên thọ giới Tiếp Hiện với thiền sư Trừng
Quang Nhất Hạnh tại chùa Pháp Vân, Sài Gòn. Ba người nữ
thọ giới Tiếp Hiện Xuất Gia và ba người nam thọ Giới
Tiếp Hiện Tại Gia. Đến khi Làng Mai có đủ tăng thân
bốn chúng tu học, cô mới xin thầy chính thức xuống
tóc. Vì cô đã trì Giới Tiếp Hiện Xuất Gia trong suốt
22 năm 9 tháng nên Thầy truyền Giới Khất Sĩ nữ cho sư
cô tại Núi Linh Thứu ngày 17.11.1988 với pháp tự Chân
Không Nghiêm và cho bài thơ Mở
Thêm Rộng Lớn Con Đường.
Sư Cô nhận đèn tuệ giác năm 1990 với bài kệ:
Chân
thân vượt thoát sắc cùng hình.
Không tánh từ xưa vẫn
tịnh minh.
Ứng hiện trần gian trăm vạn lối.
Từ bi
phương tiện độ quần sinh.
Thầy Truyền đăng muốn nhắc đến việc làm thầm lặng
của Sư Cô dưới nhiều hình thức khác nhau giúp cho không
biết bao nhiêu người, thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội
vượt khó. Có rất nhiều người thọ ơn nhưng không biết
ai là người đã ra tay giúp mình dù sư cô đang im lặng ở
kề bên họ. Sư cô Chân Không Nghiêm thuộc thế hệ thứ
43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu
Quán. Sư Cô là đệ tử xuất gia đầu tiên của Thầy
Làng Mai tính từ khi thành lập Làng Mai Pháp Quốc. Thường
được gọi là Sư cô Chân Không.
Khơi
Suối Yêu Thương (bài
tụng)
Một bài tụng được sử dụng trong các công phu sáng
hoặc chiều tại các thiền viện, có thể dùng cho cả
hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Đây là một trong
những bài tụng mới nên chưa có trong sách Nhật Tụng
Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn
nhưng đã có trong sách Thiền Môn năm 2010, ấn bản Miền
Bắc và Miền Nam.
Khuê
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam,
quốc tịch Đức, sinh năm 1976, tập sự xuất gia năm 2003
(27 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 7 năm 2003 (27
tuổi) tại chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm Nguyên
Anh, pháp tự Chân Khuê Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Vô Ưu. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2006 trong đại
giới đàn Cổ Pháp. Thọ giới lớn ngày 18 tháng 12 năm
2006 trong đại giới đàn Văn Lang.
Sao khuê tĩnh lặng chiếu
Nghiêm tịnh một đường về
Bình minh lên tiếng gọi
Sáng rỡ một trời quê.
Là đệ tử thứ 187
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khuê Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Sáng rỡ một trời quê.
Khuyến
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, dân
tộc Vân Kiều, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1990, tập sự
xuất gia năm 2006 (16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng
3 năm 2007 (17 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm
Thanh Tú, pháp tự Chân Khuyến Nghiêm. Sư cô thuộc gia
đình xuất gia Cây Trầm Hương. Là đệ tử thứ 449 của
Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khuyến Nghiêm thuộc thế hệ thứ
43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu
Quán.
Khương
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2005
(17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 1 năm 2006 (18
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Viên Từ, pháp
tự Chân Khương Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Hồng Giòn. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu
viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu
trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 345
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Khương Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Kiên
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1981, tập sự xuất gia năm 2007
(26 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 08 tháng 06 năm 2008 (27
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp tự Chân Kiên Nghiêm. Sư
cô thuộc gia đình xuất gia Cây Ngô Đồng. Là đệ tử
thứ 526 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Kiên Nghiêm thuộc thế
hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Kiến
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2005
(22 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 (22
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nhuận Bá, pháp
tự Chân Kiến Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hướng Dương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008 tại tu
viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu
trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 297
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Kiến Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Kiện
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Thái Lan, quốc
tịch Thái Lan, sinh năm 1969, tập sự xuất gia năm 2005 (36
tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 (36 tuổi)
tại Chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm Pháp Hữu,
pháp tự Chân Kiện Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Hướng Dương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2008
tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Thọ
giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại Làng Mai trong đại
giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 242 của Sư Ông
Làng Mai. Sư cô Kiện Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của
tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Kiệt
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2007
(24 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 08 tháng 06 năm 2008 (25
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp tự Chân Kiệt Nghiêm.
Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Ngô Đồng. Là đệ tử
thứ 527 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Kiệt Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Kiều
– Văn Nghệ Đứt Ruột (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối, Hoa Kỳ ấn hành năm 1994. Sách này ghi lại những
bài giảng của Thầy cho đại chúng Làng Mai về truyện
Kiều, được xem như là truyện Kiều qua cái nhìn thiền
quán.
Kiều
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 2005
(19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 (20
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Quảng Pháp,
pháp tự Chân Kiều Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Hải Đường. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại
chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ
tử thứ 374 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Kiều Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Kim
Cương – gươm báu cắt đứt phiền não (sách)
Một cuốn sách ghi lại các bài giảng về kinh Kim Cương
của Thầy Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 1990-1991 tại
Làng Mai do nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành lần
đầu năm 1992, sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng
và được tái bản nhiều lần ở các nước. Bản dịch
tiếng Anh tựa đề The
Diamond that Cuts Through Illusion
do nhà Parallax ấn hành.
Kim
Liên
(địa
điểm)
Một khách sạn, địa chỉ 7 Đào Duy Anh – Hà Nội, nơi
Sư Ông và các thầy các sư cô Làng Mai hướng dẫn khoá
tu “Đạo Phật dấn thân của thế kỷ 21” trong thời
gian từ ngày 5 – 11 tháng 5 năm 2008, một chương trình
trong khuôn khổ Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc 2008
tổ chức tại Hà Nội. Xem thêm Đạo Phật dấn thân của
thế kỷ 21.
Kinh
A Di Đà (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ tạng
Hán, kinh số 366 của tạng kinh Đại Chánh do thầy Cưu Ma
La Thập dịch từ kinh Sukhàvàtivyùhasùtra vào đầu thế
kỷ thứ năm. Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc
chiều tại các thiền viện và có thể dùng cho cả hai
phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong Nhật Tụng
Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Xin tham khảo sách Thiết
Lập Tịnh Độ.
Kinh
A Nậu La Độ (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ Tương
Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikaya 4, 380). Kinh tương
đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm
(99, tạng kinh Ðại Chánh). Được sử dụng trong các công
phu sáng hoặc chiều tại các thiền viện và có thể dùng
cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong
sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng
Niệm Đại Toàn.
Kinh
Ba Cửa Giải Thoát (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ kinh
Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại
Chánh) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại
các thiền viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền
tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền
Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Bát Đại Nhân Giác
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối, Paris ấn hành lần đầu năm 1978, được dịch ra
nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần ở Việt
Nam và hải ngoại. Bản dịch tiếng Anh dưới tựa đề
The Sutra on The
Eight Realisations of The Great Beings do
nhà Parallax ấn hành.
Kinh
Bát Nhã Hành
(kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ phần
trùng tụng của kinh Phật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã
Ba La Mật trong tạng Hán do thầy Pháp Hiền dịch vào đầu
thế kỷ thứ 11 (229, tạng kinh Ðại Chánh). Được sử
dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại các thiền
viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh
Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ tạng
Pali, tên kinh là Satipatthàna Sutta, kinh số 10 của Trung Bộ
(Majjhima Nikaya). Là kinh thiền tập căn bản nhất của đạo
Bụt nguyên thỉ. Được sử dụng trong các công phu sáng
hoặc chiều tại các thiền viện và có thể dùng cho cả
hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại
Toàn. Nếu muốn nghiên cứu thêm, xin tìm đọc sách Con
Đường Chuyển Hóa,
thiền sư Nhất Hạnh bình giảng, nhà xuất bản Lá Bối
ấn hành.
Kinh
Bốn Loại Thức Ăn (kinh)
Một
kinh được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ Kinh số
373, Tạp A Hàm. Có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm
2010 ấn bản miền Bắc và ấn bản miền Nam. Kinh
Diệt Trừ Phiền Giận
(kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ kinh
Thủy Dụ, kinh thứ 25 của bộ Trung A Hàm. (số 26, tạng
kinh Đại Chánh). Kinh tương đương trong tạng Pali là kinh
Aghatavinaya của Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya 3. 186). Được
sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại các
thiền viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông
và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn
năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Độ Người Hấp Hối
(kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ bộ
Tăng Nhất A Hàm của tạng Hán, kinh số 8, phẩm 51. Tăng
Nhất A Hàm là kinh số 125 của tạng kinh Ðại Chánh, do
thầy Tăng Già Ðề Bà dịch vào cuối thế kỷ thứ tư.
Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại
các thiền viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền
tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền
Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Hải Đảo Tự Thân (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ kinh
639 của bộ Tạp A Hàm (số 99, tạng kinh Đại Chánh).
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước
ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò
đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của
Người. Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc
chiều tại các thiền viện và có thể dùng cho cả hai
phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại
Toàn.
Kinh
Kim Cương Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ tạng
Hán, nguyên tên là Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật do
thầy Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào
đầu thế kỷ thứ năm. Kinh này là kinh số 335 trong tạng
kinh Đại Chánh. Được sử dụng trong các công phu sáng
hoặc chiều tại các thiền viện và có thể dùng cho cả
hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại
Toàn. Nếu muốn tìm hiểu sâu nghĩa kinh, xin tìm đọc
sách Kim
Cương Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não của
Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành.
Kinh
Mười Nguyện Phổ Hiền (kinh)
Kinh này được trích trong phẩm Nhập Bất Tư Nghị Cảnh
Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện, phẩm thứ 36 của kinh Ðại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, do thầy Bát Nhã dịch vào
thế kỷ thứ bảy. Kinh này là kinh số 293 trong tạng kinh
Ðại Chính. Được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn. Được
sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại các
thiền viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông
và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn
năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Nghĩa Lý Siêu Việt về Không (kinh)
Một kinh được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ Kinh
số 335, Tạp A Hàm. Có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn
năm 2010 ấn bản miền Bắc và ấn bản miền Nam.
Kinh
Người Áo Trắng (kinh,
sách)
1.
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ Kinh
Ưu Bà Tắc, kinh số 128 của bộ Trung A Hàm, trong tạng
Hán (số 26, tạng kinh Đại Chánh). Được sử dụng trong
các công phu sáng hoặc chiều tại các thiền viện và có
thể dùng cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông.
Có trong sách Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
2.
Một
cuốn sách giảng giải kinh Người Áo Trắng của Thầy
Làng Mai do nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành lần
đầu năm 1993. Được dịch ra nhiều thứ tiếng và được
tái bản nhiều lần ở nhiều nước trên thế giới. Bản
dịch tiếng Anh tựa đề For
A Future To Be Possible
do nhà in Parallax ấn hành.
Kinh
Người Bắt Rắn (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ kinh A
Lê Sá, kinh thứ 220 của bộ Trung A Hàm trong tạng Hán (số
26, tạng kinh Đại Chánh) do thầy Tăng Già Ðề Bà dịch
vào cuối thế kỷ thứ tư. Kinh tương đương trong tạng
Pali là kinh Xà Dụ (Alagaddùpama sutta), kinh thứ 22 của
Trung Bộ (Majjhima Nikàya). Được sử dụng trong các công
phu sáng hoặc chiều tại các thiền viện và có thể dùng
cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong
sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng
Niệm Đại Toàn. Xin tham khảo sách Im
Lặng Sấm Sét.
Kinh
Người Biết Sống Một Mình (kinh,
sách)
1.
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ tạng
Pali, kinh Bhaddekaratta Sutta của Trung Bộ (Majjhima Nikaya
131). Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều
tại các thiền viện và có thể dùng cho cả hai phái
Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong Nhật Tụng Thiền
Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn. Nếu muốn
nghiên cứu thêm, xin tìm đọc sách Kinh
Người Biết Sống Một Mình
- Ước
hẹn với sự sống,
thiền sư Nhất Hạnh chú giải.
2.
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối, Châu Âu ấn hành lần đầu năm 1978, được dịch
ra nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần ở
Việt Nam và hải ngoại. Bản dịch tiếng Anh tựa đề
Our
Appoinment with Life
do nhà in Parallax ấn hành.
Kinh
Pháp Ấn (sách)
Kinh Pháp Ấn do Thầy Làng Mai dịch và chú giải. Nhà xuất
bản Lá Bối, Paris ấn hành năm 1987 và được tái bản
nhiều lần.
Kinh
Phước Đức
(kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ
Mahamangala sutta (Sutta Nipata 2) trong tạng Pali. Kinh tương
đương trong tạng Hán là phẩm Cát Tường (phẩm thứ 42)
của kinh Pháp Cú Thí Dụ (211, tạng kinh Ðại Chánh). Được
sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại các
thiền viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông
và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn
năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Quán Niệm Hơi Thở - dịch và chú giải (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai được in năm 1975. Nhà
xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành lần đầu năm 1987,
sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng và được tái
bản nhiều lần ở Việt Nam và hải ngoại. Bản dịch
tiếng Anh tựa đề Breathe!
You Are Alive do
nhà Parallax ấn hành.
Kinh
Quán Niệm Hơi Thở
(kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ tạng
Pali, tên kinh là Anapanasatisutta, dịch theo Hán là Nhập Tức
Xuất Tức Niệm Kinh. Kinh này là kinh 118 của Trung Bộ
(Majjhina Nikaya). Trong tạng Hán, nếu ta góp chung các kinh
số 815, 803 và 810 của bộ Tạp A Hàm (kinh 99 của tạng
kinh Ðại Chính) lại thì sẽ có nội dung tương đương
với kinh này. là một trong những thiền kinh căn bản nhất
của đạo Bụt nguyên thỉ. Được sử dụng trong các
công phu sáng hoặc chiều tại các thiền viện và có thể
dùng cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có
trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng
Niệm Đại Toàn. Xin tìm đọc sách Kinh
Quán Niệm Hơi Thở,
thiền sư Nhất Hạnh chú giải, nhà xuất bản Lá Bối ấn
hành.
Kinh
Soi Gương (kinh)
Kinh này vốn tên là kinh Anumànasutta, kinh số 15 trong Trung
Bộ (Majjhima Nikaya), được Thầy Làng Mai dịch ra quốc
văn. Trong tạng Hán, kinh có nội dung tương đương là
kinh Tỳ Khưu Thỉnh, kinh 89 của bộ Trung A Hàm (26, tạng
kinh Ðại Chánh). Được sử dụng trong các công phu sáng
hoặc chiều tại các thiền viện và có thể dùng cho cả
hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại
Toàn.
Kinh
Sự Thật Ðích Thực (kinh)
Một
kinh được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ Chân Đế
Kinh, Paramattaka sutta, Attakavagga 5, Sutta Nipata. Có trong sách
Nhật Tụng Thiền Môn năm 2010 ấn bản miền Bắc và ấn
bản miền Nam.
Kinh
Sức Mạnh Quan Âm (kinh)
Đây là phần trùng tụng của phẩm Phổ Môn, phẩm thứ
25 của kinh Diệu Pháp Liên Hoa được Thầy Làng Mai dịch
ra quốc văn từ tạng Hán. Kinh Pháp Hoa này do thầy Cưu
Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn vào đầu thế kỷ thứ
năm. Đây là kinh số 262 của tạng Đại Chánh. Được sử
dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại các thiền
viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh
Độ tông. Có trong Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Kinh
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Tám Điều Giác Ngộ của Các Bậc Đại Nhân (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ kinh
Bát Đại Nhân Giác của tạng Hán, do thầy An Thế Cao
dịch từ tiếng Phạn. Đây là kinh số 779 của tạng kinh
Đại Chánh. Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc
chiều tại các thiền viện và có thể dùng cho cả hai
phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại
Toàn. Xin tìm đọc sách Kinh
Bát Đại Nhân Giác
hay Kinh
Tám Điều Giác Ngộ của các bậc đại nhân,
thiền sư Nhất Hạnh chú giải, nhà xuất bản Lá Bối ấn
hành.
Kinh
Thương Yêu (kinh)
Kinh này vốn tên là Metta Sutta, được Thầy Làng Mai dịch
ra quốc văn từ tạng Pali trong bộ Sutta Nipata, phần I.
Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại
các thiền viện và có thể dùng cho cả hai phái Thiền
tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng Thiền
Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Trung Đạo Nhân Duyên (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ kinh
số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là
kinh số 99 của tạng kinh Đại Chánh. Được sử dụng
trong các công phu sáng hoặc chiều tại các thiền viện
và có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh Độ
tông. Có trong Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức
Tụng Niệm Đại Toàn.
Kinh
Tuổi Trẻ và Hạnh Phúc (kinh)
Kinh này được Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ kinh
Tam Di Đề, kinh số 1078 của bộ Tạp A Hàm trong tạng Hán
(số 99, tạng kinh Đại Chánh). Kinh tương đương trong
tạng Pali là kinh Samidhi của Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya
I, 2.10). Được sử dụng trong các công phu sáng hoặc
chiều tại các thiền viện và có thể dùng cho cả hai
phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong Nhật Tụng
Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Xem thêm Hạnh
Phúc Mộng và Thực.
Kính
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người
Việt Nam, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1983, tập sự xuất gia
năm 1997 (14 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 4 tháng 02 năm
1998 (15 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh
Tâm Phật Chủng, pháp tự Chân Kính Nghiêm. Sư cô thuộc
gia đình xuất gia Cây Táo. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm
2000. Thọ giới lớn ngày 18 tháng 12 năm 2001 trong đại
giới đàn Kỷ Nguyên Mới. Nhận truyền đăng năm 2006
trong đại giới đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng:
Tay
nâng cung Kính một cành sen.
Chí nguyện đi về cõi diệu
Nghiêm.
Tuổi thơ hoa nở trời phương ngoại.
Đỉnh tuyết
ngồi yên thế nhập thiền.
Là
đệ tử thứ 63 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Kính Nghiêm
thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ
9 của phái Liễu Quán.
Kỳ
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam,
quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1979, tập sự xuất gia năm
2004 (25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 17 tháng 11 năm 2004
(25 tuổi) tại chùa Cam Lộ – Làng Mai, pháp danh Tâm Quảng
Duyên, pháp tự Chân Kỳ Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình
xuất gia Cây Mãng Cầu. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2006
trong đại giới đàn Văn Lang. Thọ giới lớn ngày 5 tháng
1 năm 2008 tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương
Địa. Là đệ tử thứ 212 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Kỳ
Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Kỷ
Nguyên Mới
(lễ
lược)
Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 16 đến ngày
22 tháng 12 năm 2001 tại tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết
Đông 2001 – 2002.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét