Năm
cái lạy
(phép tu, pháp số)
1. Phép thực tập có mục đích đưa ta trở về tiếp xúc với gốc rễ tâm linh và huyết thống của ta, khai thông được sự truyền thông, chuyển hóa được những hận thù và khổ đau trong tâm hồn.
1. Phép thực tập có mục đích đưa ta trở về tiếp xúc với gốc rễ tâm linh và huyết thống của ta, khai thông được sự truyền thông, chuyển hóa được những hận thù và khổ đau trong tâm hồn.
2.
Sau đây là nội dung của năm cái lạy:
- Lạy thứ nhất: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, dòng họ tổ tiên, gia đình huyết thống, hai bên nội ngoại. Con thấy cha mẹ mà xương thịt và sự sống đang có mặt và lưu nhuận trong từng tế bào và mạch máu của con. Qua cha con và mẹ con, con thấy ông bà, bên nội cũng như bên ngoại, đã và đang đi vào con với tất cả mọi năng lượng, mọi trông chờ, mọi ước mơ, cũng như tất cả trí tuệ và kinh nghiệm của tổ tiên trải qua bao nhiêu thế hệ. Con mang trong con sự sống, dòng máu, kinh nghiệm, tuệ giác, hạnh phúc và khổ đau của các thế hệ tổ tiên. Những yếu kém, những tồn tại và những khổ đau truyền đạt lại, con đang tu tập để chuyển hóa. Những năng lượng của trí tuệ, của kinh nghiệm và của thương yêu mà liệt vị truyền đạt lại, con đang mở rộng trái tim con và xương thịt con để mà tiếp nhận. Con có gốc rễ nơi cha, nơi mẹ, nơi ông bà, tổ tiên. Con chỉ là sự nối tiếp của tổ tiên và dòng họ. Xin cha mẹ, ông bà và tổ tiên hỗ trợ cho con, che chở cho con, truyền thêm năng lượng cho con. Con biết rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó; con biết cha mẹ nào, ông bà nào cũng thương yêu, đùm bọc và hộ trì cho con cho cháu, dù khi sinh tiền có lúc gặp phải khó khăn hay rủi ro mà không bộc lộ được niềm thương yêu và sự đùm bọc đó. Con thấy cha ông của con, từ Lạc Long Quân qua các vua Hùng và biết bao nhiêu thế hệ những người khai sáng đất nước, mở rộng cõi bờ, gìn giữ núi sông và un đúc nên nếp sống Việt Nam có thỉ, có chung, có nhân, có hậu. Con là sự tiếp nối của liệt vị. Con cúi rạp mình xuống để đón nhận năng lượng của dòng họ và tổ tiên của gia đình huyết thống con. Xin tổ tiên phù hộ độ trì cho con.
- Lạy thứ hai: Trở về kính lạy, Bụt và tổ sư, truyền đăng tục diệm, gia đình tâm linh, qua nhiều thế hệ. Con thấy thầy con, con thấy sư ông của con, người đã dạy cho con biết hiểu, biết thương, biết thở, biết cười, biết tha thứ, biết sống trong giây phút hiện tại. Con thấy, qua thầy của con, qua sư ông của con, con tiếp xúc được với các thế hệ thánh tăng qua các thời đại: các vị tổ sư Tăng Hội, Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Ðại Ðăng, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang, Nguyên Thiều, Liễu Quán; con tiếp xúc được với các vị bồ tát và với Bụt Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng gia đình tâm linh của con, đã có từ hai ngàn sáu trăm năm nay. Con biết Bụt là thầy con mà cũng là Tổ tiên tâm linh của con. Con thấy trong con có chất liệu nuôi dưỡng của Bụt, của tổ, của các thế hệ cao tăng, và năng lượng của liệt vị đã và đang đi vào trong con, đã và đang làm ra sự bình yên, an lạc, hiểu biết và thương yêu trong con. Con biết Bụt đã giáo hóa cho gia đình huyết thống của con, đã làm đẹp, làm lành nếp sống đất nước của con và của dân tộc con. Bụt đã làm cho dân tộc con trở nên một dân tộc thuần từ và văn minh, điều này con thấy rõ trong nền văn minh Lý-Trần. Con biết nếu không có Bụt, có tổ, có thầy thì con không biết tu tỉnh và thực tập an lạc cho con và cho gia đình con. Con mở rộng trái tim và xương thịt con để tiếp nhận kinh nghiệm, tuệ giác, tình thương, sự che chở và năng lượng từ bi của Bụt và của các thế hệ thánh tăng, gia đình tâm linh của con. Con là sự tiếp nối của Bụt và của các thế hệ tổ tiên tâm linh của con. Xin Bụt và chư Tổ, xin sư ông và thầy truyền cho con nguồn năng lượng thương yêu, an lạc và sự vững chãi của liệt vị. Con nguyện tu tập để chuyển hóa và để truyền cho thế hệ tương lai năng lượng của Bụt, của Tổ và của thầy.
- Lạy thứ ba: Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, khai sáng đất nước, sông núi khí thiêng, hàng ngày che chở. Con thấy con đang đứng trên đất nước này và tiếp nhận công ơn khai sáng của tiền nhân đất nước này, trước hết là các vua Hùng, rồi các vị lãnh đạo các triều Tiền Lê, Tiền Lý, Ngô, Ðinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cùng với các thế hệ tổ tiên và với biết bao nhiêu người có tên tuổi và không có tên tuổi đã đem tài trí, kiên nhẫn và chịu đựng để làm cho đất nước này trở nên nơi nương náu của bao nhiêu giống dân đủ các màu da; đã lập nên trường học, nhà thương, xây dựng cầu cống, đường sá, chợ búa; đã thiết lập nhân quyền, luật pháp, phát minh khoa học làm cho mức sống được nâng cao. Con tiếp xúc được với những thế hệ tổ tiên ngày xưa đã sinh sống trên đất nước này và đã biết sống an lành với mọi loài và với thiên nhiên. Con sống ở đây, học hòa hợp với thiên nhiên, với con người, và con cảm thấy năng lượng của đất nước này đi vào trong con, yểm trợ con, chấp nhận con. Con xin nguyện tiếp tục giữ gìn và làm tiếp nối những dòng năng lượng ấy. Con xin nguyện góp phần chuyển hóa những bạo động căm thù và vô minh còn tồn tại trong xã hội này. Xin liệt vị phù hộ độ trì cho chúng con.
- Lạy thứ tư: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì, cho người con thương. Những nguồn năng lượng vô biên mà con vừa tiếp nhận được, con xin truyền đạt cho cha con, cho mẹ con, cho những người con thương yêu: những người đã từng khổ đau, đã từng lo lắng, đã từng buồn khổ vì con, vì những vụng về và dại dột của con trong quá khứ, và cũng đã từng lo lắng buồn khổ vì hoàn cảnh khó khăn và không may của các vị. Con xin truyền đạt nguồn năng lượng ấy để nguyện cầu và tiếp sức cho cha con, cho mẹ con, cho anh chị em của con, cho tâm hồn họ lắng dịu lại, cho khổ đau trong lòng (những) người ấy được chuyển hóa, cho (những) người ấy nở được nụ cười, cho (những) người ấy cảm nhận được niềm vui sống, cho (những) người ấy được nhẹ nhàng trong thân thể và an lạc trong tâm hồn. Con hết lòng cầu mong cho (những) người ấy có hạnh phúc và an lạc. Con biết nếu những người ấy có an lạc thì con cũng có an lạc. Con cảm thấy trong lòng con không có oán hận trách móc những người ấy một mảy may nào. Con lạy tổ tiên, ông bà trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của con phù hộ độ trì cho người con thương, cho những người mà con đã nguyện thương yêu và chăm sóc. Con thấy con không còn là một cái ta riêng biệt mà con đã trở thành một với những người con thương.
- Lạy thứ năm: Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì, người làm khổ con. Con mở rộng lòng ra để truyền đi năng lượng hiểu biết và lòng xót thương của con tới những người đã làm con khổ đau và điêu đứng. Con biết người ấy cũng đã đi qua nhiều khổ đau, đã chứa chấp quá nhiều cay đắng và bực bội trong trái tim nên đã làm vung vãi những khổ đau và bực bội của người ấy lên con. Con biết những người ấy không được may mắn, có thể là từ hồi còn bé thơ đã thiếu sự chăm sóc và thương yêu, đã bị cuộc đời dằn vặt và ngược đãi bao nhiêu lần. Con biết những người như người ấy chưa được may mắn được học, được tu, đã chứa chấp những tri giác sai lầm về cuộc đời và về con, nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con xin gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của con truyền năng lượng cho (những) người ấy, để cho trái tim của họ được tiếp nhận giọt nước cam lồ mà nở ra được như một bông hoa. Con chỉ cầu mong cho người ấy được chuyển hóa để người ấy tìm ra được niềm vui sống, để không còn giữ tâm hận thù mà tự làm khổ mình và làm khổ người. Con biết vì những người ấy khổ mà không tự chủ được nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con cũng cầu mong cho tất cả những ai đã làm cho gia đình con khổ, dân tộc con điêu đứng, kể cả những kẻ xâm lăng, cướp nước, những người hải tặc, những kẻ ích kỷ, dối trá và tàn bạo được nhờ ơn Bụt, ơn Tổ, ơn tiền nhân mà cải hóa. Con thấy họ khổ và nỗi khổ ấy đang kéo dài qua nhiều thế hệ và con không muốn giữ tâm niệm sân hận, oán thù. Con không muốn cho họ khổ. Con có gốc rễ nơi tổ tiên, nơi giòng họ huyết thống và giòng họ tâm linh; trái tim con đã nở ra như một đóa hoa, con xin buông bỏ tất cả mọi hiềm hận, một lòng cầu nguyện cho kẻ đã làm khổ con, làm khổ gia đình và dân tộc con được thoát vòng tai nạn và đớn đau, để họ có thể thấy được ánh sáng của niềm vui sống và an lạc như con. Tâm con không còn mang một mảy may trách móc và oán thù. Con xin truyền đạt năng lượng của con cho tất cả những người ấy. Lạy Bụt, lạy tổ, lạy ông bà chứng minh cho con.
Năm
2000
(lễ
lược)
Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8
tháng 12 năm 2000 tại tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết
Đông 2000 – 2001.
Năm
cánh
tỏa kỳ
hương
(pháp
số,
sách)
1.
Hình
ảnh
bông hoa năm cánh
tỏa
ra mùi
hương kỳ
diệu,
tượng
trưng cho năm tông phái
thiền
của
Việt
Nam (khác
với
năm phái
thiền
của
Trung Quốc
là
phái
Lâm Tế,
Tào
Động,
Pháp
Nhãn,
Quy Ngưỡng
và
Vân
Môn). 1-
Thiền
phái
Tăng Hội,
được
tổ Tăng Hội
sáng
lập
tại
Việt
Nam vào
thế
kỷ thứ III
(tức
là
trước
tổ
Bồ Đề Đạt
Ma gần
ba trăm năm) chứ
không
phải
được
truyền
từ
Ấn
Độ
hay
Trung Quốc
sang. Phái
thiền
này
đặc
biệt
sử
dụng
các
kinh điển
Nguyên Thỉ nhưng theo tinh thần
Đại
Thừa.
Ví
dụ kinh
An Ban Thủ
Ý là kinh
Nguyên Thỉ nhưng được
tổ Tăng Hội
giảng
theo tinh thần
Đại
Thừa.
Đó
cũng
là
sự thực
tập
tại
Làng
Mai. 2-
Thiền
phái
Tỳ
Ni
Đa Lưu Chi,
xuất
hiện
vào
thế
kỷ thứ
VI, do tổ Tỳ
Ni
Đa Lưu Chi sáng
lập.
Tổ Tỳ
Ni
Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là
người
Ấn
Độ,
qua Trung Quốc
tu tập
và
hành
đạo
trong khoảng
2 năm và
gặp
tổ
Tăng
Xán,
tức
là
người
kế
thừa
tổ
Bồ Đề Đạt
Ma. Sau đó
tổ
đi về
miền
Nam và
cư
trú
tại
chùa
Pháp
Vân, thủ
đô
Giao Châu ngày
xưa. Vì
vậy
có
thể nói
rằng
phái
thiền
này
từ
Ấn
Độ
truyền
sang, và
là một
sự
tổng
hợp
giữa
Thiền
và
Mật
Tông vì
tổ
Tỳ
Ni
Đa Lưu Chi đã
dịch
nhiều
kinh thuộc
về
Mật
giáo.
3-
Phái
thiền
Vô Ngôn Thông,
do thiền
sư Vô Ngôn Thông từ
Trung
Quốc
qua và
sáng
lập
vào
thế
kỷ thứ IX.
Thầy
Vô Ngôn Thông có
liên
hệ
với
tổ
Bách
Trượng,
vị
tổ đã sáng
lập
ra những
thanh quy rất
nổi
tiếng
gọi
là
Bách
Trượng
Thanh Quy, cũng là
vị tổ chủ trương
rằng
làm
việc
chấp
tác
cũng là
tu
và
“Bất
tác
bất
thực”,
nghĩa là
một
ngày
không làm
việc
thì
không
ăn cơm, từ
truyền
thống
đó
ta
bắt
đầu
có
hình
thức
tổ
chức
thiền
viện
gọi
là
nông
thiền,
tức
là
những
trung tâm tu học
có
hoạt
động
sản
xuất
như trồng
trọt,
làm
vườn
nhưng có
sự tu
tập
trong khi làm
việc,
có
chánh
niệm
trong khi làm
chứ
không
phải
chỉ
làm
để
tăng
gia sản
xuất.
4-
Phái
thiền
Thảo
Đường,
do thiền
sư Thảo
Đường
sáng
lập
vào
thế
kỷ thứ XI.
Thiền
sư Thảo
Đường
là
một
thi sĩ, một
nhà
văn
rất
lỗi
lạc.
Thầy
từ
Trung
Quốc
qua Champa để
hoằng
pháp
nhưng không may gặp
phải
thời
chiến
tranh giữa
Đại
Việt
và
Champa
nên bị
Đại
Việt
bắt
làm
tù
binh.
Khi được
phát
hiện
ra là
một
thiền
sư có
kiến
thức
thâm uyên về
Phật
pháp
và
văn
chương lưu loát,
Thầy
đã
được
vua Lý
tôn
làm
Quốc
Sư. Thiền
phái
Thảo
Đường
là
thiền
phái
mang nhiều
tính
chất
trí
thức.
5-Thiền
phái
Trúc
Lâm,
xuất
hiện
vào
thế
kỷ thứ XIII.
Đây là
thiền
phái
do thiền
sư người
Việt
là
Hiện
Quang thành
lập.
Sau này,
vua Trần
Nhân Tông tu theo phái
thiền
này
và
được
chính
thức
nhìn
nhận
là
tổ thứ nhất.
Sau đó
có các
thiền
sư Pháp
Loa, Huyền
Quang và
được
tiếp
nối
cho đến
ngày
nay. Núi
Yên Tử
là nơi
phát
tích
của
thiền
phái
Trúc
Lâm này.
2.
Tên một cuốn sách phiên tả từ băng giảng các bài pháp
thoại của Thầy Làng Mai và các tin tức sinh hoạt của
chùa Làng Mai. Nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành năm
2000, được in nhiều lần tại Việt Nam.
Năm
điều ước nguyện (pháp
số, phép tu)
Trong hôn lễ cử hành theo nghi thức Làng Mai, trước sự
chứng minh của tăng thân và đại chúng, cô dâu và chú
rể sẽ phát năm lời nguyện này để giúp duy trì cuộc
hôn nhân hạnh phúc và bền vững.
- 1- Chúng con nguyện sống đời sống hàng ngày sao cho xứng đáng với đạo đức của tổ tiên và giống nòi chúng con.
- 2- Chúng con nguyện sống đời sống hàng ngày sao cho xứng đáng với kỳ vọng mà tổ tiên và giống nòi đặt nơi chúng con.
- 3- Chúng con nguyện nương vào nhau, xây dựng cho nhau bằng tình thương, sự tin cậy, sự hiểu biết và lòng kiên nhẫn.
- 4- Chúng con nguyện thường tự nhắc nhở rằng sự trách móc, sự giận hờn và lý luận chỉ làm hao tổn hòa khí và không giải quyết được gì. Chúng con biết chỉ có sự hiểu biết và lòng tin mới bồi đắp được hạnh phúc và sự an lạc.
- 5- Chúng con nguyện trong đời sống hàng ngày dồn hết tâm lực và phương tiện để xây dựng cho thế hệ con cháu của chúng con trong tương lai. (Xem sách Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn).
Năm
mươi bài tụng Duy Biểu
(luận,
pháp số) Tinh
hoa của Duy Biểu Học (Duy Thức Học) cô đọng lại thành
năm mươi bài tụng, do Thầy Làng Mai chế tác, căn cứ
trên các tác phẩm Duy Thức căn bản như Nhiếp Đại Thừa
Luận, Duy Thức Tam Thập Tụng, Duy Thức Nhị Thập Tụng,
Bát Thức Quy Củ Tụng, v.v... Những bài tụng này đưa
Duy Thức Học từ quyền thừa (Đại Thừa nửa vời) lên
Đại Thừa thật sự, bằng giáo lý Pháp Hoa và Hoa Nghiêm.
Những bài tụng thuộc về phần thực tập và quán chiếu
có tính chất thực tiễn và nối kết được với Đạo
Bụt Nguyên Thỉ. Đã được phiên tả và in thành sách ở
Việt Nam nhiều lần, dưới nhan đề Duy Biểu Học. Sách
Transformation at the Base (Chuyển Ý) do nhà Parallax ấn hành
phiên tả lại những bài giảng về Năm Mươi Bài Tụng
Duy Biểu bằng Anh ngữ đã được tái bản nhiều lần,
lần mới nhất lấy tựa đề là Understanding
our Mind
đã được phát hành rất rộng rãi, và đã được phiên
dịch và xuất bản ra nhiều thứ tiếng. Sau đây là
nguyên văn tiếng Việt của Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu
(Duy Biểu Ngũ Thập Tụng): 1.
Tâm
là đất gieo hạt. Mọi hạt giống chứa đầy. Tâm địa
cũng chính là. Toàn thể hạt giống ấy.
2.
Hạt
giống có đủ loại. Sinh tử và niết bàn. Mê ngộ và
vui khổ. Danh xưng và tướng trạng.
3.
Hạt
giống của thân, tâm. Giới địa và thế gian. Tất cả
được cất chứa. Nên thức gọi là tàng.
4.
Có
hạt giống sẵn có. Có hạt giống trao truyền. Huân tập
thời thơ ấu. Cả thời gian thai nghén.
5.
Từ
gia đình bè bạn. Nơi xã hội học đường. Hạt giống
nào cũng có. Tính cách riêng và chung.
6.
Giá
trị một đời người. Tùy thuộc vào phẩm chất. Mọi
hạt giống đang nằm. Trong chiều sâu tâm thức.
7.
Tác
dụng A lại gia. Là tiếp nhận duy trì. Và làm biểu hiện
ra. Hạt giống cùng tập khí.
8.
Biểu
biệt A lại gia. Là thế giới tánh cảnh. Độc ảnh và
đới chất. Mười tám giới hình thành.
9.
Tất
cả mọi hiện hành. Đều tự biểu, cộng biểu. Dị thục
khi dự vào. Giới và địa cũng thế.
10.
Là
vô phú, vô ký. Vừa chuyển lại vừa hằng. Tàng thức
luôn tương ứng. Năm tâm sở biến hành.
11.
Tuy
vô thường vô ngã. Tàng thức vẫn gồm thâu. Mọi pháp
trong thế gian. Hữu lậu và vô lậu.
12.
Hạt
giống sinh hạt giống. Hạt giống sinh hiện hành. Hiện
hành sinh hạt giống. Hiện hành sinh hiện hành. 13.
Hạt
giống hay hiện hành. Đều tương tức tương nhập. Một
do tất cả thành. Tất cả đều do một. 14.
Tàng
không một không khác. Không chung cũng không riêng. Một và
khác nương nhau. Chung và riêng triển chuyển. 15.
Vô
minh diệt minh sanh. Tàng chuyển thành vô lậu. Gương trí
soi mười phương. Bạch tịnh và vô cấu. 16.
Hạt
giống của vô minh. Của triền sử ái nhiễm. Quấy động
thành vọng thức. Khi danh sắc hiện hành. 17.
Nương
vào A lại gia. Phát hiện thức Mạt na. Tác dụng là tư
lương. Níu lấy tàng làm ngã. 18.
Đối
tượng của Mạt- na. Là ngã tướng đới chất. Phát sinh
từ giao thoa. Giữa ý và tàng thức. 19.
Vì
sáu chuyển thức khác. Đóng vai nhiễm tịnh y. Vừa thẩm
lại vừa hằng. Hữu phú mà vô ký. 20.
Tương
ưng năm biến hành. Bốn phiền não và tuệ. Cùng tám thứ
đại tùy. Đều hữu phú vô ký. 21.
Cũng
như bóng theo hình. Mạt na theo tàng mãi. Là cơ chế tự
tồn. Là bản năng dục ái. 22.
Sơ
địa khi đạt tới. Dứt phiền não, sở tri. Bát địa
hết câu sinh. A lại gia phóng khí. 23.
Nương
vào ý làm căn. Pháp trần làm đối tượng. Ý thức được
phát sinh. Phạm vi nhận thức rộng. 24.
Thông
ba tánh, ba lượng. Tiếp xúc cả ba cảnh. Đủ thiện, ác,
bất định. Biệt cảnh và biến hành. 25.
Là
gốc của thân khẩu. Có thẩm mà không hằng. Tạo tác
nghiệp dẫn mãn. Đóng vai kẻ gieo trồng. 26.
Ý
thức thường hiện hành. Trừ trong trời vô tưởng. Trong
hai định vô tâm. Ngủ say và bất tỉnh. 27.
Năm
trạng thái ý thức. Là tán vị, độc đầu. Trong định
hoặc điên loạn. Cùng trường hợp ngũ câu. 28.
Năm
thức cảm giác sanh. Dựa trên dòng ý thức. Phát hiện
riêng hoặc chung. Như sóng nương trên nước. 29.
Tánh
cảnh và hiện lượng. Có ba tánh đầy đủ. Nhờ vào
tịnh sắc căn. Và cảm giác trung khu. 30.
Tâm
sở là biến hành. Biệt cảnh, thiện, đại tùy. Trung tùy
hai phiền não. Và cả tham sân si. 31.
Thức
luôn luôn bao hàm. Chủ thể và đối tượng. Tự, tha,
trong và ngoài. Đều chỉ là ý niệm. 32.
Thức
gồm có ba phần. Kiến, tướng và tự thể. Chủng tử và
tâm hành. Tất cả đều như thế. 33.
Sinh
diệt tùy nhân duyên. Thức vốn là biểu biệt. Kiến và
tướng nương nhau. Năng biệt và sở biệt. 34.
Nơi
tự biểu cộng biểu. Ngã, vô ngã không hai. Luân hồi mỗi
sát na. Bập bềnh sinh tử hải. 35.
Thời,
không và bốn đại. Đều do thức hiện bày. Tương tức
và tương nhập. Dị thục từng phút giây. 36.
Nhân
duyên đủ biểu hiện. Nhân duyên khuyết ẩn tàng. Không
đi cũng không đến. Không có cũng không không. 37.
Hạt
giống sinh hiện hành. Đó gọi là nhân duyên. Chủ thể
nương đối tượng. Ta gọi sở duyên duyên. 38.
Điều kiện thuận hay nghịch. Đều là tăng thượng
duyên. Vô gián duyên thứ tư. Là liên tục chuyển biến.
39.
Nhân
duyên có hai mặt. Vọng thức và chân tâm. Vọng thức vì
biến kế. Chân tâm do viên thành. 40.
Biến
kế huân vô minh. Kéo theo luân hồi khổ. Viên thành mở
tuệ giác. Hiển lộ cảnh chân như. 41.
Quán
chiếu tính y tha. Vô minh thành tuệ giác. Luân hồi và
chân như. Tuy hai mà thành một. 42.
Trong
rác sẵn có hoa. Trong hoa sẵn có rác. Hoa và rác không
hai. Giác và mê tương tức. 43.
Không
trốn chạy sinh tử. Quán chiếu cần niệm lực. Thấy
được tính y tha. Là chứng nhập tương tức. 44.
Nương
hơi thở chánh niệm. Tưới hạt giống bồ đề. Chánh
kiến là đóa hoa. Nở trên vùng ý thức. 45.
Như
ánh sáng mặt trời. Chiếu soi loài cây cảnh. Chánh niệm
khi thắp lên. Chuyển hóa mọi tâm hành. 46.
Nhận
diện để chuyển hóa. Nội kết và tùy miên. Khi tập khí
không còn. Quả chuyển y hiển hiện. 47.
Phút
hiện tại thu nhiếp. Quá khứ và vị lai. Bí quyết của
chuyển y. Nằm trong giây hiện tại. 48.
Tu
tập và chuyển hóa. Trong đời sống hàng ngày. Nương tựa
vào tăng đoàn. Công phu mau nhìn thấy. 49.
Không
sinh cũng không diệt. Sinh tử là niết bàn. Sở đắc là
vô đắc. Không nắm cũng không buông. 50.
Lướt
trên sóng sinh tử. Thuyền từ dạo biển mê. Nụ cười
vô úy nở. Phiền não tức bồ đề.
Năm
ơn (pháp
số)
Ngoài
bốn
ơn (tứ trọng ân), Thầy
Làng
Mai bổ sung thêm ơn thứ
năm:
ơn của
thầy
đối
với
đệ
tử.
Học
trò
mang
nặng
ơn giáo
huấn
của
Thầy,
nhưng ngược
lại,
ở
Làng
Mai, Thầy
cũng biết
ơn đệ
tử vì đã chọn
Thầy
làm
người
cha tâm linh, đã
chọn
Làng
Mai là
ngôi
nhà
tâm
linh.
Năm
phép thực tập chánh niệm
(pháp
số, phép tu)
Năm nguyên tắc chỉ đạo nhất định cho những phật tử
tại gia để giúp họ sống một đời sống bình an, lành
mạnh và hạnh phúc. Còn gọi là năm học, năm giới, năm
phép tu tập. Tiếng Anh là The
Five Mindfulness Trainings,
tiếng Pháp là Les
Cinq Entrainements à la Pleine Conscience.
Năm giới quý báu được Bụt giảng trong Kinh Người Áo
Trắng. Kinh này Thầy Làng Mai dịch ra quốc văn từ Ưu Bà
Tắc Kinh, số 128 của Bộ Trung A Hàm. 1.
Giới
thứ
nhất
– tôn trọng sự sống:
Ý
thức
được
những
khổ
đau
do sự
sát
hại
gây ra, con xin học
theo hạnh
đại
bi để
bảo
vệ
sự sống
của
mọi
người
và
mọi
loài.
Con nguyện
không giết
hại
sinh mạng,
không tán
thành
sự
giết
chóc
và
không
để
kẻ khác
giết
hại,
dù
là trong
tâm tưởng
hay trong cách
sống
hàng
ngày
của
con.
2.
Giới
thứ
hai
- mở rộng lòng: Ý
thức
được
những
khổ
đau
do lường
gạt,
trộm
cướp
và
bất
công xã
hội
gây ra, con xin học
theo hạnh
?a?i t?? ??? ?em ni??m vui s??ng va? an la?c cho mo?i ng???i va?
mođại
từ
để đem
niềm
vui sống
và
an
lạc
cho mọi
người
và
mọi
loài,
để
chia
sẻ
thì giờ,
năng lực
và
tài
vật
của
con với
những
kẻ
đang
thật
sự
thiếu
thốn.
Con nguyện
không lấy
làm
tư hữu
bất
cứ
một
của
cải
na?o kh?ng pha?i do mi?nh ta?o ra. Con nguy??n t?n tro?ng quy??n t?
h̀o
không phải
do mình
tạo
ra. Con nguyện
tôn trọng
quyền
tư hữu
của
kẻ
khác,
nhưng cũng
nguyện
ngăn ngừa
kẻ
khác
không cho họ
tích
trữ
và làm
giàu
một
cách
bất
lương trên sự
đau
khổ
của
con người
và
của
muôn loại.
3.
Giới
thứ
ba
- bảo vệ tiết hạnh:
Ý
thức
được
những
khổ
đau
do thói
tà
dâm
gây ra, con xin học
theo tinh thần
trách
nhiệm
để
giúp
bảo
vệ
tiết
hạnh
và
sự an
toàn
của
mọi
người
và
mọi
gia đình
trong xã
hội.
Con nguyện
không ăn nằm
với
những
người
không phải
là
vợ hay
chồng
của
con. Con ý
thức
được
rằng
những
hành
động
bất
chánh
sẽ
gây
ra những
đau khổ
cho
kẻ
khác
và
cho
chính
con. Con biết
muốn
bảo
vệ
hạnh
phúc
của
mình
và
của
kẻ
khác
thì
phải
biết
tôn trọng
những
cam kết
của
mình
và
của
kẻ
khác.
Con sẽ
làm
mọi
cách
có
thể để bảo
vệ
trẻ em,
không cho nạn
tà
dâm
tiếp
tục
gây nên sự
đổ vỡ của
các
gia đình
và
của
đời
sống
đôi lứ́a.
4.
Giới
thứ
tư
– ái ngữ và lắng nghe:
Ý
thức
được
những
khổ
đau
do lời
nói
thiếu
chánh
niệm
gây ra, con xin học
theo hạnh
ái
ngữ
và l??ng
nghe ??? d?ng t??ng ni??m vui cho ng???i va? la?m v?i b??t khắng
nghe để
dâng
tặng
niềm
vui cho người
và
làm
vơi bớt
khổ
đau
của
người.
Biết
rằng
lời
nói
có
thể đem
lại
hạnh
phúc
hoặc
khổ
đau
cho người,
con nguyện
chỉ
nói
những
lời
có
thể gây
thêm niềm
tự
tin,
an vui và
hy
vọng,
những
lời
chân thật
có
giá trị xây
dựng
sự
hiểu
biết
và
hòa
giải.
Con nguyện
không nói
những
điều
sai với
sự
thật,
không nói
những
lời
gây chia rẽ
và căm
thù.
Con nguyện
không loan truyền
những
tin mà
con
không biết
chắc
là
có thật,
không phê bình
và
lên
án
những
điều
con không biết
rõ.
Con nguyện
không nói
những
điều
có
thể tạo
nên sự
bất
hòa
trong gia đình
và
đoàn
thể,
những
điều
có
thể làm
tan vỡ
gia
đình
và đoàn thể. 5.
Giới
thứ
năm
– gìn giữ thân tâm, lành mạnh xã hội: Ý
thức
được
những
khổ
đau
do sự
sử dụng
ma túy
và
độc
tố
gây
ra, con xin học
cách
chuyển
hóa
thân tâm, xây dựng
sức
khỏe
thân thể
và tâm
hồn
bằng
cách
thực
tập
chánh
niệm
trong việc
ăn uống
và
tiêu
thụ.
Con nguyện
chỉ
tiêu
thu? nh??ng gi? co? th?? ?em la?i an la?c cho th?n t?m con, va? cho
tḥ
những
gì
có thể đem
lại
an lạc
cho thân tâm con, và
cho
thân tâm gia đình
và
xã hội
con. Con nguyện
không uống
rượu,
không sử
dụng
các
chất
ma túy,
không ăn uống
hoặc
tiêu thụ
những
sản
phẩm
có
độc
tố
trong
đó
có một
số
sản
phẩm
truyền
thanh, truyền
hình,
sách
báo,
phim ảnh
và
chuyện
trò.
Con biết
rằng
tàn
hoại
thân tâm bằng
rượu
và
các
độc
tố
ấy
là
phản
bội
tổ
tiên,
cha mẹ
và cũng
là
phản
bội
các
thế
hệ tương
lai. Con nguyện
chuyển
hóa
bạo
động,
căm thù,
sợ
hãi
và
buồn
giận
bằng
cách
thực
tập
phép
kiêng cữ
cho
con, cho gia đình
con và
cho
xã
hội.
Con biết
phép
kiêng khem này
rất
thiết
yếu
để
chuyển
hóa
tự
thân,
tâm thức
cộng
đồng
và
xã hội.
Năm
phép thực tập chánh niệm - sửa đổi (pháp
số, phép tu) Trong
khóa an cư kiết Đông 2008-2009 với chủ đề “Con đường
của Bụt - Những đóng góp của Bụt cho một nền đạo
đức toàn cầu”, dưới sự hướng dẫn của Thầy Làng
Mai, toàn thể tứ chúng Làng Mai đã cùng tìm hiểu, nghiên
cứu và pháp đàm để hiệu chỉnh lại Năm giới sao cho
phù hợp với tình trạng xã hội hiện thời. Bản tiếng
Pháp của Năm phép tu chánh niệm sửa đổi đã được
công bố ngày 14 tháng 4 năm 2009 trong khóa tu tiếng Pháp.
Tuy nhiên các giới vẫn được tiếp tục bổ sung và hoàn
thiện trong khóa tu 21 ngày Con
đường của Bụt - Những đóng góp của Phật giáo cho
một nền đạo đức toàn cầu
diễn ra vào tháng 6 năm 2009 tại Làng Mai. Văn bản chính
thức của Năm
giới tân tu
bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp đã được
chính thức công bố ngày 8 tháng 7 năm 2009 trong bài pháp
thoại khai mạc khóa tu mùa hè của Thầy Làng Mai. Sau đây
là toàn văn của bản tiếng Việt: “Lời
mở đầu: Kính
thưa Đại chúng, kính thưa các anh chị em bạn đồng tu,
bây giờ là lúc chúng ta có cơ hội được tụng chung Năm
Giới với nhau. Năm Giới tức là năm phép thực tập
chánh niệm, biểu hiện được một cách cụ thể giáo lý
Tứ Đế và Bát Chánh Đạo, con đường của Bụt, con
đường của hiểu biết và thương yêu đích thực có khả
năng đưa tới trị liệu, chuyển hóa và hạnh phúc cho
bản thân và cho thế giới. Năm Giới mang theo tuệ giác
Tương Tức, tức là Chánh Kiến, có khả năng tháo bỏ
mọi cuồng tín, cố chấp, kỳ thị, sợ hãi, hận thù và
tuyệt vọng. Sống và thực tập theo Năm Giới là chúng
ta đã đi vào con đường mà các vị Bồ Tát đang đi. Năm
Giới này đại diện cho cái thấy của đạo Bụt về một
nền Tâm Linh và Đạo Đức Toàn Cầu. Biết rằng đang
được đi trên con đường của Bụt, chúng ta không còn
lý do gì để lo lắng cho hiện tại và sợ hãi cho tương
lai. 1.
Giới thứ nhất - Bảo vệ sự sống:
Ý
thức được những khổ đau do sự giết chóc gây ra, con
xin nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương Tức và
lòng Từ Bi, để có thể bảo vệ sinh mạng của con
người, của các loài động vật, thực vật và môi
trường của sự sống. Con nguyện không sát hại, không
để kẻ khác sát hại và không yểm trợ cho bất cứ một
hành động sát hại nào trên thế giới, trong tư duy cũng
như trong đời sống hàng ngày của con. Thấy được rằng
tất cả những bạo động do sợ hãi, hận thù, tham vọng
và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy
lưỡng nguyên và kỳ thị, con nguyện học hỏi thái độ
cởi mở, không kỳ thị và không cố chấp vào bất cứ
một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào
để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều
và thiếu bao dung trong con và trong thế giới.
2.
Giới thứ hai - Hạnh phúc chân thực:
Ý
thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp,
áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập
san sẻ thì giờ, năng lực và tài sản của con với những
kẻ thiếu thốn, trong cả ba lĩnh vực tư duy, nói năng,
và hành động của đời sống hàng ngày. Con nguyện không
lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải
do tự mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để
thấy được rằng hạnh phúc và khổ đau của người kia
có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của
chính con, rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có
được nếu không có hiểu biết và thương yêu, và đi
tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng,
giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và
tuyệt vọng. Con đã ý thức được rằng hạnh phúc chân
thực phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ
không đến từ bên ngoài, rằng thực tập phép tri túc
con có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút
hiện tại, nếu con có khả năng trở về giây phút ấy
để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đã
có sẵn. Con nguyện thực tập theo Chánh Mạng để có thể
làm giảm thiểu khổ đau của mọi loài trên trái đất
và để chuyển ngược quá trình hâm nóng địa cầu. 3.
Giới thứ ba - Tình thương đích thực:
Ý
thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin
nguyện học hỏi theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo
hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia
đình và trong xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là
hai cái khác nhau, rằng những liên hệ tình dục do thèm
khát gây nên luôn luôn mang tới hệ lụy, đổ vỡ cho con
và cho kẻ khác. Con nguyện không có liên hệ tình dục
với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và
những cam kết chính thức và lâu dài. Con sẽ làm mọi
cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm
tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của
đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương
pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong
con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và để
nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những
yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực
để làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người
khác. Con biết thực tập Tứ Vô Lượng Tâm ấy con sẽ
được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong những
kiếp sau.
4.
Giới thứ tư - Ái ngữ và lắng nghe:
Ý
thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm
và do thiếu khả năng lắng nghe gây ra, con xin nguyện học
các hạnh Ái Ngữ và Lắng Nghe để có thể hiến tặng
niềm vui cho người, làm vơi bớt nỗi khổ đau của
người, và giúp đem lại an bình và hòa giải giữa mọi
người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết
rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau
cho người, con nguyện học nói những lời có khả năng
gây thêm niềm tự tin, an vui và hi vọng, những lời chân
thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con
nguyện không nói năng gì khi biết cơn bực tức đang có
mặt trong con, nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để
nhìn sâu vào gốc rễ của những bực tức ấy, nhận
diện những tri giác sai lầm trong con và tìm cách hiểu
được những khổ đau trong con và trong người mà con đang
bực tức. Con nguyện học nói sự thật và lắng nghe như
thế nào để có thể giúp người kia thay đổi và thấy
được nẻo thoát ra ngoài những khó khăn đang gặp phải.
Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết
chắc là có thật, không nói những điều có thể tạo
nên sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Con
nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để có thể nuôi dưỡng
khả năng hiểu, thương, hạnh phúc và không kỳ thị nơi
con và cũng để làm yếu dần những hạt giống bạo
động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu
tâm thức.
5.
Giới thứ năm - Nuôi dưỡng và trị liệu:
Ý thức được những khổ đau do thói tiêu thụ không
chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa
thân tâm, xây dựng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng
cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu
thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là
đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để
tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện
không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không
ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào có
độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, phim ảnh,
truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và cả
chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về
với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì
tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong
con và xung quanh con, không để cho tiếc nuối và ưu sầu
kéo con trở về quá khứ và không để lo lắng và sợ
hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ
chỉ để khỏa lấp khổ đau, cô đơn và lo lắng trong
con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương
duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà
duy trì được an vui trong thân tâm con, trong thân tâm của
xã hội, và trong môi trường sống.”
Năm
quán
(phép
tu, pháp số)
Năm điều quán niệm trước khi ăn.
1- Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời, của muôn loài và công phu lao tác.
2- Xin nguyện ăn trong chánh niệm và với lòng biết ơn để xứng đáng thọ nhận thức ăn này.
3- Khi ăn, xin nhớ nhận diện và chuyển hóa những tâm hành xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực.
4- Xin nguyện ăn như thế nào để giảm thiểu đau khổ của muôn loài, bảo hộ được trái đất và chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.
5- Vì muốn xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ và độ đời nên con xin thọ nhận thức ăn này. Điều quán niệm thứ tư được Sư Ông Làng Mai sửa lại năm 2007 để phù hợp với tinh thần bảo hộ trái đất và góp phần đưa tới sự chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu. Bản cũ là: 4- Xin chỉ ăn những thức có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh. Xin xem thêm Nghi thức ăn cơm chánh niệm trong sách Nghi thức Tụng niệm Đại Toàn.
1- Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời, của muôn loài và công phu lao tác.
2- Xin nguyện ăn trong chánh niệm và với lòng biết ơn để xứng đáng thọ nhận thức ăn này.
3- Khi ăn, xin nhớ nhận diện và chuyển hóa những tâm hành xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực.
4- Xin nguyện ăn như thế nào để giảm thiểu đau khổ của muôn loài, bảo hộ được trái đất và chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.
5- Vì muốn xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ và độ đời nên con xin thọ nhận thức ăn này. Điều quán niệm thứ tư được Sư Ông Làng Mai sửa lại năm 2007 để phù hợp với tinh thần bảo hộ trái đất và góp phần đưa tới sự chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu. Bản cũ là: 4- Xin chỉ ăn những thức có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh. Xin xem thêm Nghi thức ăn cơm chánh niệm trong sách Nghi thức Tụng niệm Đại Toàn.
Năm
vóc
(thuật
ngữ)
Năm vóc là hai chân, hai tay và
đầu.
Tư thế
thực
tập
thiền
lạy
ở
Làng
Mai là
năm
vóc
sát
đất,
nghĩa là
khi
lạy
xuống,
ta nên lạy
càng
sát
đất
càng
tốt,
hai chân và
hai
tay sát
xuống
đất,
trán
cũng sát vào
đất.
Năng
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1993, tập sự xuất gia năm 2005
(12 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (14
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nguyên Ái, pháp
tự Chân Năng Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Trầm Hương. Là đệ tử thứ 467 của Sư Ông Làng Mai. Sư
cô Năng Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế
và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Nắng
Thủy Tinh
(cơ sở) Một
cư xá dành cho cư sĩ nữ tại tu viện Bích Nham.
Nẻo
Vào Thiền Học (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối,
Sài Gòn xuất bản lần đầu năm 1971, được dịch ra
nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần ở trong
nước cũng như ở ngoài nước. Sách này được nhà
Seghers ở Paris xuất bản bằng tiếng Pháp với tựa đề
là Zen
Keys.
Nẻo
Về Của Ý (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối, Sài Gòn
xuất bản lần đầu năm 1967, được dịch ra tiếng Anh
và được tái bản nhiều lần ở trong nước cũng như ở
ngoài nước. Bản dịch tiếng Anh tựa đề Fragrant
Palm Leaves do
nhà xuất bản Parallax ấn hành.
Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn ấn hành năm 2007.
Nẻo
Về Tiếp Nối Đường Đi
(tác
phẩm)
Một vở thoại kịch do Thầy Làng Mai sáng tác năm 1967,
sau khi nghe tin năm người tác viên xã hội của trường
Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội bị thảm sát trên bờ sông
trong khi đi làm công tác xã hội. Vở kịch này đã được
dịch ra Anh ngữ và đã được một đoàn ca kịch Đức
trình diễn nhiều nơi tại Hoa Kỳ.
Nẻo
về xấu ác (thuật
ngữ)
Đó là nẻo về địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Do thực
tập chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp mà hành giả
không đi về các nẻo xấu ác.
Nến
Hồng (điện
đường)
Một thiền đường thuộc chùa Cam Lộ, Xóm Hạ.
Nến
Ngọc
(lễ lược, điện đường) 1.
Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 30 tháng 11 đến
ngày 4 tháng 12 năm 1996 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết
Đông 1996 – 1997. Còn được gọi là đại giới đàn
Ngọc Chúc.
2.
Một thiền đường dành cho các thầy tại tu viện Bích
Nham.
Ngày
Đá Đơm Bông (bài
hát)
Một bài hát, nhạc của Nhật Ngân, tăng thân Làng Mai
chỉnh lời.
Buổi tối ngủ trên đồi hỏi hòn đá nhỏ.
Con đường nào, con đường nào dẫn đến một dòng sông.
Một dòng sông, mà ta vẫn thường ra ngồi giặt áo.
Và con đò, và câu hò theo nước trôi xuôi.
Buổi sáng ngồi trên rừng hỏi ngàn lá đổ.
Con đường nào, con đường nào dẫn đến một miền quê.
Một miền quê, trời năm ấy ruộng khô cằn sỏi đá.
Nay mưa về, nay mưa về cho lúa trổ bông.
Ơ ớ ơ quê mình giờ đây, con sông xưa thuyền có xuôi ngược.
Ơ ớ ơ kẽo kẹt võng đưa, ơ ớ ơ tiếng ru ngọt môi.
Thương những buổi trưa hè ta thường khe khẽ.
Con đường này, con đường này dẫn đến cõi tình thương.
Nhìn ra thấy mẹ đang đứng cười rung làn tóc trắng.
Tre cuối làng, cau sau vườn theo gió đong đưa.
Buổi sáng hỏi mây trời đi hoài có rõ.
Con đường này, con đường này mỗi bước tới quê hương.
Nhìn ra thấy bầy chim sáo rủ nhau về xây tổ.
Mưa đã về, mưa đang về cho đá đơm bông.
Buổi tối ngủ trên đồi hỏi hòn đá nhỏ.
Con đường nào, con đường nào dẫn đến một dòng sông.
Một dòng sông, mà ta vẫn thường ra ngồi giặt áo.
Và con đò, và câu hò theo nước trôi xuôi.
Buổi sáng ngồi trên rừng hỏi ngàn lá đổ.
Con đường nào, con đường nào dẫn đến một miền quê.
Một miền quê, trời năm ấy ruộng khô cằn sỏi đá.
Nay mưa về, nay mưa về cho lúa trổ bông.
Ơ ớ ơ quê mình giờ đây, con sông xưa thuyền có xuôi ngược.
Ơ ớ ơ kẽo kẹt võng đưa, ơ ớ ơ tiếng ru ngọt môi.
Thương những buổi trưa hè ta thường khe khẽ.
Con đường này, con đường này dẫn đến cõi tình thương.
Nhìn ra thấy mẹ đang đứng cười rung làn tóc trắng.
Tre cuối làng, cau sau vườn theo gió đong đưa.
Buổi sáng hỏi mây trời đi hoài có rõ.
Con đường này, con đường này mỗi bước tới quê hương.
Nhìn ra thấy bầy chim sáo rủ nhau về xây tổ.
Mưa đã về, mưa đang về cho đá đơm bông.
Ngày
Đêm An Lành (bài
tụng) Một
bài tụng được sử dụng trong các công phu sáng hoặc
chiều tại các thiền viện, có thể dùng cho cả hai phái
Thiền tông và Tịnh Độ tông. Có trong sách Nhật Tụng
Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
Bản tiếng Anh có tựa đề May
the day be well.
Ngày
em hai mươi tuổi
(lễ
lược)
Năm 2002 - nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập đạo
tràng Mai Thôn, tại Mai Thôn có tổ chức nhiều khóa tu và
nhiều sinh hoạt đặc biệt để ăn mừng. Lá thư Làng
Mai số đặc biệt (tháng 2, 2002 - bằng tiếng Việt) và
một văn tập đặc biệt bằng tiếng Anh được xuất bản
nhân dịp này, lấy tên là I have arrived - I am home do sư cô
Chân Châu Nghiêm chủ biên. Cũng trong dịp này, Thầy Làng
Mai nhân danh niên trưởng môn phái tổ đình Từ Hiếu đã
gửi thông điệp Phật
giáo dân tộc - Đạo Bụt hiện đại
cho tất cả bốn chúng của môn phái về việc làm mới
đạo Bụt Việt Nam. Sau đây là nguyên văn Thông bạch đầu
năm 2002.
“Kính
gửi liệt vị tôn đức, các vị sư trưởng và toàn thể
đại chúng, Năm mới tôi kính cẩn cầu chư Bụt, chư Bồ
Tát và liệt vị Tổ Sư nhiếp thọ và bảo hộ cho liệt
vị tôn đức, sư trưởng và toàn thể đại chúng được
an vui suốt năm và gặt hái được nhiều hoa trái của sự
thực tập giáo pháp mầu nhiệm của đức Thế Tôn. Rất
mong trong năm nay tất cả các Chùa, Viện, Niệm Phật
Đường và tư gia thuộc môn phái thực hiện được những
bước tiến sau đây trong đường hướng xây dựng một
nền Phật giáo dân tộc và một đạo Bụt hiện đại.
1. Tại các tổ đường, cũng như tại tư gia, an trí tôn tượng của thiền sư Tăng Hội, sơ tổ Thiền Tông Việt Nam và cũng là sơ tổ Giáo Tông Việt Nam. Mỗi năm xin tổ chức giỗ tổ Tăng Hội long trọng vào ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày tổ thị tịch tại Chùa Kiến Sơ năm 280, cách đây 1722 năm. Cùng với thông điệp này xin gửi theo một tôn tượng của thiền sư Tăng Hội do hai họa sĩ Nguyễn Đồng và Nguyễn Thị Hợp thực hiện. Xin các Phật tử nghệ nhân góp sức để tiếp tục cung hiến những hình và tượng khác của sơ tổ, cũng như của chư vị tổ sư lớn khác của Phật Giáo Việt Nam như tổ sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Trúc Lâm Điều Ngự.
2. Áp dụng ngay vào thời khóa công phu sáng chiều các nghi thức tụng niệm toàn bằng quốc văn, theo sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
3. Phối hợp tuyệt hảo pháp môn Tịnh Độ và pháp môn Thiền Quán theo tinh thần tông phái Trúc Lâm, được diễn giải rõ ràng trong sách Thiết Lập Tịnh Độ, cất bỏ đi mọi sự ngăn ngại và những kẽ hở giữa hai truyền thống.
4. Đặt tất cả bốn uy nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) vào chánh niệm. Đại chúng thực tập thiền đi chung ngoài trời mỗi ngày một lần. Ngoài ra, mỗi khi cần di chuyển, ai nấy đều áp dụng phương pháp bước từng bước chân trong chánh niệm, phối hợp hơi thở với bước chân, sử dụng các bài kệ ‘đã về, đã tới...’ và ‘đây là tịnh độ...’.
5. Đem nội dung nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa vào sự thực tập. Đừng để sự thực tập hằng ngày rơi vào bẫy hình thức, dù là trong phép tọa thiền, thọ trai, niệm Bụt, chấp tác hay trì tụng. Thực tập theo nguyên tắc hiện pháp lạc trú mà Bụt đề ra.
6. Áp dụng pháp môn đệ nhị thân để săn sóc cho nhau.
7. Áp dụng pháp môn soi sáng để nâng đỡ nhau trong công phu thực tập chuyển hóa và đi tới.
8. Áp dụng pháp môn thiền lạy mỗi ngày để chuyển nghiệp và thiết lập lại truyền thông với thầy tổ, huynh đệ, và môn đồ. Mỗi vị xuất gia dù là sa di đều có ni-sư-đàn tùy thân mỗi khi lên Thiền Đường hoặc Phật Đường thực tập.
9. Y phục của người xuất gia, ngoài màu vàng cho ba y, đều được may bằng hoặc màu nâu sồng hoặc màu khói hương. Các vị ni sư và sư cô nên áp dụng chít khăn truyền thống Việt Nam và bỏ đi chiếc khăn đã bắt chước các bà sơ Tây phương từ 50 năm về trước.
10. Mỗi năm tổ chức và hướng dẫn các khóa tu cho các Phật tử tại gia (khóa tu một ngày, hai ngày cuối tuần, ba ngày, năm ngày, bảy ngày), giảng dạy và thực tập các pháp môn quán chiếu, điều phục cơn giận, ái ngữ, lắng nghe, làm mới, hòa giải, tụng giới, pháp đàm và tưới tẩm hạt giống tốt.
11. Xây cất chùa, viện và tăng xá, xin nhất thiết vâng theo kiến trúc truyền thống. Chúng ta có thể phát triển truyền thống, nhưng những nguyên tắc và đường nét chính cần được tôn trọng và duy trì. Kính thưa các vị tôn đức và liệt vị trong đại chúng, xã hội hiện thời đang có những bước tiến rất nhanh, nhất là trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và giáo dục. Nếu chúng ta không hiện đại hóa được cách học hỏi và thực tập chánh pháp thì chúng ta sẽ không đáp ứng được kịp thời với những nhu cầu của xã hội mới. Xin liệt vị để tâm suy xét để chúng ta có thể cùng nhau đưa đạo Bụt thực sự vào đời sống hiện đại. Kính thông bạch, Thiền Sư Nhất Hạnh.”
1. Tại các tổ đường, cũng như tại tư gia, an trí tôn tượng của thiền sư Tăng Hội, sơ tổ Thiền Tông Việt Nam và cũng là sơ tổ Giáo Tông Việt Nam. Mỗi năm xin tổ chức giỗ tổ Tăng Hội long trọng vào ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày tổ thị tịch tại Chùa Kiến Sơ năm 280, cách đây 1722 năm. Cùng với thông điệp này xin gửi theo một tôn tượng của thiền sư Tăng Hội do hai họa sĩ Nguyễn Đồng và Nguyễn Thị Hợp thực hiện. Xin các Phật tử nghệ nhân góp sức để tiếp tục cung hiến những hình và tượng khác của sơ tổ, cũng như của chư vị tổ sư lớn khác của Phật Giáo Việt Nam như tổ sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Trúc Lâm Điều Ngự.
2. Áp dụng ngay vào thời khóa công phu sáng chiều các nghi thức tụng niệm toàn bằng quốc văn, theo sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.
3. Phối hợp tuyệt hảo pháp môn Tịnh Độ và pháp môn Thiền Quán theo tinh thần tông phái Trúc Lâm, được diễn giải rõ ràng trong sách Thiết Lập Tịnh Độ, cất bỏ đi mọi sự ngăn ngại và những kẽ hở giữa hai truyền thống.
4. Đặt tất cả bốn uy nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) vào chánh niệm. Đại chúng thực tập thiền đi chung ngoài trời mỗi ngày một lần. Ngoài ra, mỗi khi cần di chuyển, ai nấy đều áp dụng phương pháp bước từng bước chân trong chánh niệm, phối hợp hơi thở với bước chân, sử dụng các bài kệ ‘đã về, đã tới...’ và ‘đây là tịnh độ...’.
5. Đem nội dung nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa vào sự thực tập. Đừng để sự thực tập hằng ngày rơi vào bẫy hình thức, dù là trong phép tọa thiền, thọ trai, niệm Bụt, chấp tác hay trì tụng. Thực tập theo nguyên tắc hiện pháp lạc trú mà Bụt đề ra.
6. Áp dụng pháp môn đệ nhị thân để săn sóc cho nhau.
7. Áp dụng pháp môn soi sáng để nâng đỡ nhau trong công phu thực tập chuyển hóa và đi tới.
8. Áp dụng pháp môn thiền lạy mỗi ngày để chuyển nghiệp và thiết lập lại truyền thông với thầy tổ, huynh đệ, và môn đồ. Mỗi vị xuất gia dù là sa di đều có ni-sư-đàn tùy thân mỗi khi lên Thiền Đường hoặc Phật Đường thực tập.
9. Y phục của người xuất gia, ngoài màu vàng cho ba y, đều được may bằng hoặc màu nâu sồng hoặc màu khói hương. Các vị ni sư và sư cô nên áp dụng chít khăn truyền thống Việt Nam và bỏ đi chiếc khăn đã bắt chước các bà sơ Tây phương từ 50 năm về trước.
10. Mỗi năm tổ chức và hướng dẫn các khóa tu cho các Phật tử tại gia (khóa tu một ngày, hai ngày cuối tuần, ba ngày, năm ngày, bảy ngày), giảng dạy và thực tập các pháp môn quán chiếu, điều phục cơn giận, ái ngữ, lắng nghe, làm mới, hòa giải, tụng giới, pháp đàm và tưới tẩm hạt giống tốt.
11. Xây cất chùa, viện và tăng xá, xin nhất thiết vâng theo kiến trúc truyền thống. Chúng ta có thể phát triển truyền thống, nhưng những nguyên tắc và đường nét chính cần được tôn trọng và duy trì. Kính thưa các vị tôn đức và liệt vị trong đại chúng, xã hội hiện thời đang có những bước tiến rất nhanh, nhất là trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và giáo dục. Nếu chúng ta không hiện đại hóa được cách học hỏi và thực tập chánh pháp thì chúng ta sẽ không đáp ứng được kịp thời với những nhu cầu của xã hội mới. Xin liệt vị để tâm suy xét để chúng ta có thể cùng nhau đưa đạo Bụt thực sự vào đời sống hiện đại. Kính thông bạch, Thiền Sư Nhất Hạnh.”
Ngày
Không Xe Hơi (phép
tu)
tiếng Anh là No-Car
Day hay
Car
Free Day. Phép
thực tập một ngày không sử dụng xe hơi chạy bằng
xăng hay nhiên liệu khác có thể gây nên khí thải làm ô
nhiễm môi trường. Phép thực tập này xuất phát từ
tinh thần bảo vệ môi trường, bảo hộ trái đất và nỗ
lực chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu
bằng cách giảm thiểu lượng khí thải xe hơi vào bầu
khí quyển. Bắt đầu từ mùa thu năm 2006 và cho đến
nay, tất cả các xóm thuộc đạo tràng Mai Thôn đang thực
tập ít nhất một Ngày Không Xe hơi trong tuần và thu
hút được sự hưởng ứng tham gia của hàng ngàn người
trên thế giới. Ta có thể cam kết không sử dụng xe hơi
ít nhất một ngày trong tuần, trong tháng cũng như tiến
hành những biện pháp khác giúp giảm thiểu lượng khí
nhà xanh. Xin xem thêm tại trang nhà tiếng Anh:
www.car-free-days.org
Ngày cư sĩ (thuật ngữ) xem ngày xuất sĩ.
Ngày
không điện
(phép tu) Tiếng
Anh là No-Electricity
Day.
Một sự thực tập của các xóm thuộc Đạo tràng Mai
Thôn theo tinh thần bảo vệ môi trường, bảo hộ trái
đất và góp phần vào nỗ lực chuyển ngược lại quá
trình hâm nóng địa cầu. Tùy vào thời khóa sinh hoạt và
vào mùa (Ở
châu
Âu, từ tháng 3 đến tháng 10, ban ngày dài hơn, mặt trời
lặn rất muộn nên rất thuận tiện cho sự thực tập
này) mà các xóm áp dụng thực tập một ngày không có
điện (24h liên tục) trong tuần.
Ngày
làm biếng (thuật
ngữ)
Ngày thực tập không có thời khóa chung, mỗi người thực
tập theo ý mình muốn. Tại các Đạo Tràng Mai Thôn, mỗi
tuần có một ngày gọi là ngày làm
biếng.
Tuy gọi là ngày
làm biếng
nhưng ngày này rất thanh tịnh và sự thực tập rất sâu
sắc. Tuy không có chuông báo hiệu thời khóa, không có
chuông nhắc nhở chánh niệm, nhưng năng lượng thực tập
không thua sút những ngày khác. Mỗi hành giả có thể tự
mình đi thiền hành, bái sám, tụng kinh, chấp tác, viết
thư, học hỏi theo ý mình thích, và cũng có thể mời một
vài người bạn tu cùng làm chung với mình. Sở dĩ không
gọi ngày này là ngày nghỉ ngơi vì sự thực tập ở
Làng mai là mọi sinh hoạt như ngồi thiền, đi thiền,
nghe pháp thoại, ăn cơm chánh niệm, chấp tác, v.v... đều
được thực tập một cách thoải mái, thảnh thơi, không
gấp rút. Vì vậy sự thực tập nghỉ ngơi có thể được
thực hiện mỗi ngày. Ngày làm biếng cũng là một ngày
thực tập. Nếu ta quá quen với lao tác, ta không thể ngồi
yên mà không làm gì thì ngày làm biếng là một cơ hội
để thực tập không làm gì cả, hoặc có làm gì thì
cũng làm theo kiểu không làm, để cho thân tâm được
nghỉ ngơi. Không làm gì cả cũng là một sự thực tập,
gặp nhau chào nhau trong ngày làm biếng, ta có thể hỏi
thăm: hôm
nay sư em có làm biếng giỏi không?
Ngày
Mở Cửa
(thuật ngữ) Ngày
các xóm thuộc Mai Thôn Đạo Tràng mở cửa đón tiếp các
bạn hàng xóm ở gần xung quanh và ở những thị trấn
lân cận tới chơi và ăn chiều để giới thiệu cho các
bạn về cuộc sống của Làng, cũng là cơ hội thiết lập
quan hệ gần gũi và thân mật với người dân địa
phương. Tiếng Anh là Open
House.
Ngày mở cửa được tổ chức một lần trong năm, thường
vào đầu mùa hè và diễn ra ở ngoài trời.
Ngày
quán niệm (thuật
ngữ) Một
ngày tu tập chánh niệm theo pháp môn Làng Mai. Tiếng Anh
là Mindfulness
Day.
Trong ngày này đại chúng tập họp lại để cùng thực
tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm, ăn cơm
trong chánh niệm, cùng nghe pháp thoại và cùng nhau pháp
đàm về những đề tài tu học. Năng lượng chánh niệm
do mỗi thành viên trong tăng thân chế tác trong ngày quán
niệm sẽ làm năng lượng chánh niệm tập thể hùng mạnh
hơn và nguồn năng lượng này sẽ trở lại yểm trợ cho
năng lượng chánh niệm của từng thành viên. Tại Làng
Mai, ngày quán niệm diễn ra vào các ngày Thứ Năm và Chủ
Nhật hàng tuần và được các Xóm luân phiên nhau tổ
chức. Đại chúng được nghe pháp thoại trực tiếp của
Thầy Làng Mai, cùng Thầy đi thiền hành, ăn cơm chánh
niệm. Những khi Thầy Làng Mai đi vắng, đại chúng ở
nhà vẫn duy trì hai ngày quán niệm dưới sự hướng dẫn
của các vị giáo thọ. Ngày quán niệm tại các tu viện
khác thuộc đạo tràng, đại chúng có thể nghe pháp thoại
của các vị giáo thọ hay nghe pháp thoại thu thanh của Sư
Ông từ CD hay lấy từ trên mạng internet, trong những dịp
đặc biệt sẽ được nghe pháp thoại viễn liên. Ngày
quán niệm cũng là một phần không thể thiếu trong chương
trình sinh họạt hàng tuần hay hàng tháng của những tăng
thân tại gia khắp nơi trên thế giới. Trong các chuyến
hoằng pháp của tăng thân Làng Mai, ngày quán niệm cũng
được tổ chức cho những bạn thiền sinh không có điều
kiện tới dự trọn vẹn một khóa tu dài ngày.
Ngày
xuất sĩ (thuật
ngữ) Ngày
sinh hoạt dành riêng cho giới đã xuất gia. Tiếng Anh là
Monastic
Day.
Tại Làng Mai, vào khóa tu mùa Đông, mỗi tuần có một
ngày sinh hoạt tại Nội viện Phương Khê dành riêng cho
những người xuất sĩ (xem xuất
sĩ).
Cùng ngày ấy, tại một xóm của Làng Mai các vị cư sĩ
cũng có một ngày sinh hoạt riêng, đó là ngày cư sĩ
(tiếng Anh là Lay
Day).
Nghe
chuông
(phép
tu)
Tiếng
chuông giu?p ta tr?? v?? th??c t??p h?i th?? cha?nh ni??m. M??i khi
nghe típ
ta trở
về thực
tập
hơi thở
chánh
niệm.
Mỗi
khi nghe tiếng
chuông, ta ngưng lại
mọi
suy tư, nói
năng và
di
động
để
trở về với
hơi thở.
Thở
vào
ta thầm
niệm
“Lắng
lòng
nghe, lắng
lòng
nghe”, thở
ra
ta thầm
niệm
“Tiếng
chuông huyền
diệu
đưa về
nhất
tâm”. Ta thực
tập
với
bài
kệ
như
thế
ít
nhất
là
ba
lần.
Ở
Làng
Mai, các
buổi
pháp
thoại
và
pháp
đàm
đều
có
chuông
chánh
niệm
để
cả người
nói
lẫn
người
nghe có
cơ
hội
thực
tập
an trú
trong
hiện
tại.
Ngoài
ra, tiếng
chuông đồng
hồ
đánh
nhạc
mỗi
15 phút
hay tiếng
chuông điện
thoại
cũng đều
là
cơ
hội
để
mọi
người
thực
tập.
Nghe
pháp thoại (phép
tu)
Một phương pháp thực tập. Nghe không phải để chất
chứa kiến thức Phật Pháp mà là để có cơ hội cho
những hạt giống tuệ giác và từ bi có sẵn trong tâm
thức được tưới tẩm và những khó khăn bức xúc được
tháo gỡ và tan rã. Muốn nghe như thế thì không được
sử dụng trí năng so sánh và phê phán mà cứ để cho
những lời pháp thấm vào đất tâm - ‘mưa
xuân nhẹ hạt đất tâm ướt, hạt đậu năm xưa hé
miệng cười’-
để giúp cho những hạt giống tốt trong ấy được có
cơ hội tưới tẩm và nẩy mầm. Trí năng so sánh được
ví như một tấm ni-lông được giăng ra để hứng nước
mưa và vì vậy không cho mưa thấm được vào lòng đất.
Nghe pháp thoại, hành giả cũng ngồi trong tư thế kiết
già và buông thư như trong giờ thiền ngồi vậy.
Nghi
Thức Tụng Giới Nam Khất Sĩ (sách)
Giới bản nam khất sĩ và nghi thức tụng giới do Đạo
Tràng Mai Thôn ấn hành n?m 1999, ph? bi?n cho ??o Tr?ng Mai Th?n
v? c?c trung t?m tr?c thuăm 1999, phổ biến cho Đạo Tràng Mai
Thôn và các trung tâm trực thuộc.
Nghi
Thức Tụng Giới Nữ Khất Sĩ (sách)
Giới bản nữ khất sĩ và nghi thức tụng giới do Đạo
Tràng Mai Thôn ấn hành năm 1999, phổ biến cho Đạo Tràng
Mai Thôn và các trung tâm trực thuộc.
Nghi
Thức Tụng Niệm
(sách)
Sách gồm các kinh căn bản bằng quốc văn do Thầy Làng
Mai dịch từ tiếng Hán và các nghi thức như tụng giới,
truyền giới, giỗ tổ tiên, cúng ngọ v.v… Nhà Lá Bối,
Hoa Kỳ xuất bản lần đầu năm 1989 và được tái bản
nhiều lần. Bản tiếng Anh dưới tựa đề The
Plum Village Chanting and Recitation Book, do
nhà Parallax ấn hành.
Nghi
Thức Tụng Niệm Đại Toàn
(sách)
Một cuốn sách do Hội Đồng Giáo Thọ Đạo Tràng Mai
Thôn biên soạn, được hoàn chỉnh từ cuốn Nghi Thức
Tụng Niệm năm 1994 và Thiền Môn Nhật Tụng năm 2000. Nhà
Lá Bối, Hoa Kỳ xuất bản năm 1999, đã được dịch và
phổ biến ở nhiều nước.
Nghĩa
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1982, tập sự xuất gia năm 2005
(23 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (25
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Diệu Châu, pháp
tự Chân Nghĩa Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Trầm Hương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại Làng
Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ
411 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Nghĩa Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Ngọc
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2006
(15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (16
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Cúc, pháp
tự Chân Ngọc Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Trầm Hương. Là đệ tử thứ 461 của Sư Ông Làng Mai. Sư
cô Ngọc Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế
và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Ngộ
Nghiêm
(tên
gọi) Một
vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2005
(14 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (16
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nguyên Chơn,
pháp tự Chân Ngộ Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Trầm Hương. Là đệ tử thứ 459 của Sư Ông Làng
Mai. Sư cô Ngộ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Ngồi
Yên
(điện
đường)
Một cái thất của Thầy
Làng Mai
tại chùa Pháp Vân, Xóm Thượng.
Ngũ
quán đường
(cơ
sở)
Tên
nhà ăn tại chùa Pháp Vân, Xóm Thượng.
Nguyên
Chơn
(tên
gọi) Thượng
tọa Thích Nguyên Chơn. Một vị giáo thọ xuất gia nam.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2001 trong đại giới
đàn Kỷ Nguyên Mới với bài kệ truyền đăng như sau:
Châu
về hợp phố nhập Nguyên lưu.
Chơn nghĩa viên dung ý
thượng thừa.
Non xưa trăng sáng soi lòng tháp.
Ngày về
một gọi có ngàn thưa.
Nguyên
Thông
(tên
gọi) Thượng
tọa Thích Nguyên Thông. Một vị giáo thọ xuất gia nam.
Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới
đàn Lâm Tế với bài kệ truyền đăng như sau:
Ngọc
trắng tâm lành Nguyên vẹn.
Cảm Thông muôn nẻo nhiệm
màu.
Mạch nước từ bi phát hiện.
Đẹp lòng hai ngả xưa
sau.
Nguyên
Xuân
(tên
gọi) Một
vị giáo thọ xuất gia nữ, pháp tự Minh Huyền. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn
Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng như sau:
Minh nguyệt chiếu soi từ đỉnh núi.
Huyền cơ nắm giữ
giữa lòng tay.
Bản thân vốn đủ đầy công dụng.
An lạc
há cần tùy thuộc ai?
Nguyện
Hải
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt
Nam, quốc tịch Đan Mạch, sinh năm 1962, tập sự xuất gia
năm 1990 (28 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 27 tháng 12 năm
1990 (28 tuổi) tại chùa Cam Lộ, pháp danh Tâm Thiện Bình,
pháp tự Chân Nguyện Hải. Thầy thuộc gia đình xuất gia
Con Sư Tử. Thọ giới lớn ngày 10 tháng 1 năm 1992 trong
đại giới đàn Cam Lộ. Nhận truyền đăng năm 1996 trong
đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng:
Nguyện
ước truyền theo tia nắng sớm.
Hải triều vang động
tiếng chuông khuya.
Tập hợp mây hồng trên đỉnh núi.
Nhạc khúc vô sinh nhịp bước về.
Là đệ tử thứ 7 của Sư Ông Làng Mai,. Thầy Nguyện
Hải thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ
thứ 9 của phái Liễu Quán. Thầy nguyên là trụ trì chùa
Pháp Vân, Xóm Thượng.
Nguyện
Nghiêm
(tên gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1987, tập sự xuất gia năm 2008
(21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 08 tháng 03 năm 2009 (22
tuổi) tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Phước Nguyện,
pháp tự Chân Nguyện Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Sen Vàng. Là đệ tử thứ 610 của Sư Ông Làng
Mai. Sư cô Nguyện Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Nguyệt
Hồ
(cơ
sở)
Một cư xá dành cho các sư cô tại xóm Hạc Trắng, tu
viện Bích Nham.
Nguyệt
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2006
(15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (16
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Túc, pháp
tự Chân Nguyệt Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Trầm Hương. Là đệ tử thứ 468 của Sư Ông Làng
Mai. Sư cô Nguyệt Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Người
ấy chính là bà (giai
thoại) Trong
một buổi vấn đáp của khóa tu 21 ngày tại Làng Mai, có
một vị thiền sinh nữ lên đặt một câu hỏi với Thầy
Làng Mai. Bà hỏi:
“Kính bạch Thầy, sau này khi Thầy không còn nữa, sẽ có một người phụ nữ nào thay thế Thầy không ạ?”
Thầy trả lời: “ Có, người đó chính là bà!”
(Dear Thầy, in the future when you are no longer here, will there be a woman who would replace you?” – “You are the one!”)
“Kính bạch Thầy, sau này khi Thầy không còn nữa, sẽ có một người phụ nữ nào thay thế Thầy không ạ?”
Thầy trả lời: “ Có, người đó chính là bà!”
(Dear Thầy, in the future when you are no longer here, will there be a woman who would replace you?” – “You are the one!”)
Người
Vô Sự
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối ấn hành năm 2008, nội dung là bình giảng tác phẩm
Lâm Tế Ngữ Lục Đại Toàn.
Nhà
Trăng Biển
(điện
đường)Phòng
nghỉ của Sư Ông Làng Mai ở Xóm Mới.
Nhã
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Đại
Hàn, quốc tịch Hoa Kỳ, thọ giới Sa Di Ni ngày 27 tháng
07 năm 1999 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp tự Chân
Nhã Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Xoài. Là
đệ tử thứ 84 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Nhã Nghiêm
thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ
9 của phái Liễu Quán.
Nhạc
Kinh
(sách)
Một
tuyển tập nhạc bao gồm các bài kinh, kệ và sám nguyện
trong sách Nhật Tụng Thiền Môn do nhạc sĩ Anh Việt phổ
nhạc. Nhà Lá Bối, Hoa Kỳ xuất bản năm 1999.
Nhạc
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2005
(17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 (18
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nguyên Ân, pháp
tự Chân Nhạc Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hải Đường. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa
Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử
thứ 377 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Nhạc Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Nhãn
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2006
(23 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (24
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Vinh, pháp
tự Chân Nhãn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Trầm Hương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa
Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử
thứ 413 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Nhãn Nghiêm thuộc thế
hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Nhẫn
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Mỹ, sinh năm 1969, tập sự xuất gia năm 2006 (37
tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 11 tháng 2 năm 2007 (38 tuổi)
tại Chùa Cam Lộ - Làng Mai, pháp danh Tâm Nguyên Tịnh,
pháp tự Chân Nhẫn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Đu Đủ. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại
Làng Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử
thứ 391 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Nhẫn Nghiêm thuộc
thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của
phái Liễu Quán.
Nhất
Định
(tên
gọi)
Vị tổ sư khai sơn chùa Từ Hiếu, Huế, nơi phát xuất
??o tr?ng Mai Th?n. H? Nguy?n, sinh n?m 1784 t?i Qu?ng Tr?, t?p sđạo
tràng Mai Thôn. Họ Nguyễn, sinh năm 1784 tại Quảng Trị,
tập sự xuất gia từ hồi còn bé, 19 tuổi được thọ
giới sa di tại chùa Thiền Tông với bổn sư là thiền sư
Phổ Tịnh. Thọ giới lớn tại giới đàn chùa Linh Mụ
với thiền sư Mật Hoằng. Năm 30 tuổi được thiền sư
Phổ Tịnh phú pháp truyền đăng với bài kệ:
Nhất
Định chiếu quang minh.
Hư không nguyệt mãn viên.
Tổ tổ
truyền phú chúc.
Đạo minh kế Tánh Thiên.
Tổ tịch năm 1847. Sau đó am An Dưỡng nơi tổ cư trú
được xây dựng thành chùa Từ Hiếu.
Nhất
Hạnh
(tên
gọi)
Xem Thầy Làng Mai.
Nhất
Hạnh Thiền Sư Văn Tập (sách)
Một bộ sách của thiền sư Nhất Hạnh gồm có 12 tác
phẩm như Trái Tim Của Bụt, Trái Tim Mặt Trời, Phép lạ
của Sự Tỉnh Thức, v.v… do Minh Hạo dịch từ Anh sang
Hoa ngữ, nhà xuất bản Hư Vân Ấn Kinh Công Đức Tạng
ấn hành ở Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc. Văn tập gồm
tám tập, do thiền sư Tịnh Tuệ chùa Bách Lâm đề tựa
và giới thiệu. Văn tập này đã được nhà xuất bản
Tôn Giáo Văn Hóa Xuất Bản Xã ấn hành trở lại. Địa
chỉ của nhà xuất bản này: số 44, Hậu Hải Bắc Duyên,
khu Tây Thành, Bắc Kinh. Mười hai tác phẩm của văn tập
là: Phật Chi Tâm Pháp, Sinh Mệnh Đích Chuyển Hóa Dữ
Liệu Cứu, Hô Hấp Nễ Hoạt Trước, Thiền Đích Yếu
Lĩnh, Tĩnh Tu Dũ Hợp Chi Đạo, Chánh Niệm Đích Kỳ Tích,
Thiết Xuyên Vọng Tưởng Đích Kim Cương Thạch, Y Đại
Trung Đích Mai Khôi, Bộ Nhập Giải Thoát, Đương Hạ Nhất
Khắc Mỹ Diệu Nhất Khắc, Tương Tức và Ái Đích Ngôn
Giáo.
sư cô Nhất Nghiêm |
Nhất Trí (tên gọi) Tên thật là Nguyễn Nhất Trí, người huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, được Thầy Làng Mai thế phát cho thọ mười giới Sa Di năm 1964. Sư chú làm thị giả cho Thầy từ tháng giêng năm 1964. Đến tháng 7 năm 1964, sư chú được Thầy giao phó thành lập Làng Tình Thương hoa tiêu tại Xã Thảo Điền, Gia Định cùng với sư chị Chín và đã sát cánh với sư chị đi cứu trợ mỗi hai tháng một lần trên sông Thu Bồn, vượt vùng lửa đạn vào tận những nơi xa xôi những nơi mà ít người dám tới để mang gạo, áo quần và thuốc men cho người đói và rét ở những vùng núi xa từ tháng 11 năm 1964 đến tháng 8 năm 1965. Tháng 9 năm 1965, sư chú là một trong số 300 người sinh viên đầu tiên được tuyển vào Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Ngày 14 tháng 6 năm 1967, trong khi đang công tác tại Xã Linh Đông, Ấp Bình Quới, Thủ Đức, Gia Định, sư chú bị một toán người lạ mặt đến dẫn đi mất tích cùng với bảy thanh niên Phụng Sự Xã Hội cùng đội công tác với sư chú. Sư Chú chưa kịp thọ đại giới.
Nhận
diện đơn thuần
(thuật
ngữ)
Một trong những tác dụng của chánh niệm: nhận diện
những gì đang xảy ra ở đây trong giây phút hiện tại,
nhận diện mà không có khuynh hướng ưa thích vướng mắc
hoặc xua đuổi ghét bỏ, nghĩa là nhận diện đơn thuần.
Nhận diện đơn thuần giúp cho hành giả bảo tồn được
tự do của mình. Phương pháp nhận diện đơn thuần này
được Bụt dạy trong kinh Niệm Xứ (Satipatthanasutta).
Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2000
(sách)
Một cuốn sách gồm các kinh căn bản, các bài tụng bằng
quốc văn do Thầy Làng Mai dịch từ tiếng Hán và các bài
thi kệ thực tập chánh niệm trong thiền viện. Nhà Lá
Bối, Hoa Kỳ xuất bản năm 1997; nhà xuất bản Tôn Giáo
Hà Nội ấn hành lần đầu năm 2005. Trong khi Thiền Môn
Nhật Tụng chữ Hán chỉ có hai buổi công phu sớm và
chiều thì sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 có tới
mười bốn buổi công phu cho một tuần lễ, mỗi buổi có
những kinh văn khác nhau. Sách này có thể sử dụng cho cả
Thiền tông và Tịnh Độ tông. Sách được Hòa Thượng
Thanh Từ viết lời giới thiệu.
Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2010
(sách)
Tái bản của sách Nhật
Tụng Thiền Môn năm 2000,
trong đó có bổ sung những kinh văn và bài tụng mới như
Kinh Sự Thật Đích Thực, Kinh Nghĩa Lý Siêu Việt Về
Không, Kinh Bốn Loại Thức Ăn, bài tụng Ái Ngữ Lắng
Nghe, bài tụng Khơi Suối Yêu Thương, bài tụng Hiện Pháp
Lạc Trú, bài tụng Điều Phục Cơn Giận, bài tụng Tưới
Tẩm Hạt Giống Tốt, bài tụng Hiện Pháp Lạc Trú. Được
trình bày thành hai ấn bản, ấn bản miền Bắc được
Nhà xuất bản Tôn Giáo Hà Nội in năm 2008, ấn bản miền
Nam in năm 2009.
Nhị
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Úc, sinh năm 1981, tập sự xuất gia năm 2008 (27
tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 (27 tuổi)
tại Chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm Thương Yêu,
pháp tự Chân Nhị Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ 557 của Sư Ông Làng Mai.
Sư cô Nhị Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế
và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Nhiếp
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2006
(15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (16
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Trì, pháp
tự Chân Nhiếp Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Trầm Hương. Là đệ tử thứ 458 của Sư Ông Làng Mai. Sư
cô Nhiếp Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế
và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Nhìn
Kỹ Quê Hương
(sách)
Một
cuốn sách của Thầy Làng Mai do Tổng Hội Sinh Viên Vạn
Hạnh Sài Gòn xuất bản năm 1967, lấy tên nhà xuất bản
là Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại.
Nhìn
sâu
(thuật
ngữ, phép tu) Quán
chiếu sâu sắc. Đây là từ ngữ Làng Mai chỉ cho sự
thực tập vipassana,
quán chiếu. Thiền gồm có chỉ (samatha)
và quán là (vipassàna).
Chỉ là dừng lại, tập trung, và quán là nhìn sâu để
khám phá được tự tính của đối tượng quán chiếu.
Tiếng Anh là deep
looking.
Xem
chỉ
quán.
Nho
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt nam, quốc
tịch Mỹ, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2001 (16
tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 2 năm 2002 (17 tuổi)
tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Thủy Tinh,
pháp tự Chân Nho Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia
Cây Thốt Nốt. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2004 trong đại
giới đàn Lâm Tế. Thọ giới lớn ngày 10 tháng 11 năm
2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ. Là đệ tử thứ 145
của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Nho Nghiêm thuộc thế hệ thứ
43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu
Quán. Là một trong những đệ tử trẻ tuổi của Sư Ông
Làng Mai được Sư Ông Làng Mai đặt danh hiệu Baby
Nun.
Nhu
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1989, tập sự xuất gia năm 2005
(16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 (16
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã - Việt Nam, pháp danh Tâm
Nguyên Thanh, pháp tự Chân Nhu Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình
xuất gia Cây Hướng Dương. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm
2008 tại tu viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương
Địa. Là đệ tử thứ 306 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô
Nhu Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Nhuận
Hải
(tên
gọi) Một
vị giáo thọ xuất gia nam, được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài
kệ truyền đăng như sau:
Nhuận
thấm mười phương nếp học phong.
Hải triều vang dội
đức khiêm cung.
Hoa kia nở đẹp trên cành ấy.
Tay nắm
tay làm rạng tổ tông.
Nhuận
Nghiêm (tên
gọi) Một
vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 2006
(20 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (21
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Quảng Trang,
pháp tự Chân Nhuận Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Trầm Hương. Là đệ tử thứ 427 của Sư Ông Làng
Mai. Sư cô Nhuận Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông
Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Như
Hiếu
(tên
gọi)
Một vị giáo thọ xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng
Mai. Pháp danh Tâm Nguyên Từ. Người Việt Nam, xuất gia
năm 1990 tại Việt Nam. Thọ giới lớn năm 2000. Nhận
truyền đăng năm 2007 tại Bát Nhã trong đại giới đàn
Phương Bối với bài kệ truyền đăng:
Chân
Như trung Hiếu vẹn đôi đường.
Đất Mẹ ươm đầy
những hạt thương.
Thế giới ba ngàn lên tiếng gọi.
Một
tâm soi chiếu cả mười phương.
Đến
Làng Mai từ năm 2003.
Như
Minh
(tên
gọi)
Ni sư Như Minh. Một vị giáo thọ xuất gia nữ. Trụ trì
chùa Tây Linh, Huế. Người Việt Nam. Được Thầy Làng
Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với
bài kệ truyền đăng như sau:
Chơn
như hiển lộ nét uyên minh.
Thơ đọng màu sương ánh kiếm
linh.
Mưa tạnh mây tan trăng đã tỏ.
Đôi ta rõ mặt hiện
chân hình.
Ni
Sư Như Minh thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và
thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Như
Nghiêm (tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Mỹ, quốc
tịch Mỹ, sinh năm 1980, tập sự xuất gia năm 2004 (24
tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 30 tháng 8 năm 2004 (24 tuổi)
tại chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Deep Insight of the
Heart, pháp tự Chân Như Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất
gia Cây Olive. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2006 trong đại
giới đàn Văn Lang. Thọ giới lớn ngày 5 tháng 1 năm 2008
tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Là
đệ tử thứ 208 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Như Nghiêm
thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ
9 của phái Liễu Quán.
Như
Ngọc
(tên
gọi)
Ni sư Như Ngọc. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm
2001 trong đại giới đàn Thiên Niên Kỷ với bài kệ
truyền đăng như sau:
Như
tâm như cảnh cũng chơn như.
Ngọc sáng bừng lên ánh diệu
từ.
Cảnh ấy tâm này duy biểu hiện.
Tiếng cười vang
động bặt tăm hơi.
Ni sư Như Ngọc thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế
và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Như
Phước (tên
gọi) Một
vị giáo thọ xuất gia nữ. Được Thầy Làng Mai truyền
đăng n?m 1992 trong ??i gi?i ??n Cam L? v?i b?i k? truy?n ??ng nh?
sau: ăm 1992 trong đại giới đàn Cam Lộ với bài kệ
truyền đăng như sau:
Như
Lai vừa cười nhẹ.
Phước trí đã song nghiêm.
Giới định
vừa chiếu sáng.
Hoa tuệ nở bên thềm.
Như
Quang (tên
gọi) Một
vị giáo thọ xuất gia nữ, được Thầy Làng Mai truyền
đăng năm 2000 trong đại giới đàn Năm 2000 với bài kệ
truyền đăng như sau:
Chân
Như tâm thể phóng hào Quang.
Ước nguyện muôn xưa đã
vẹn toàn.
Sự nghiệp truyền trao nguồn tịnh lạc.
Rực
trời phượng nở chốn quê hương.
Như
Tịnh
(tên
gọi) Một
vị giáo thọ xuất gia nam, pháp tự Thanh Duệ. Được
Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn
Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng như sau:
Thanh
hư trời rộng trăng soi chiếu.
Duệ triết sông dài biển
đợi trông.
Một sáng oanh vàng lên tiếng hót.
Non sông
rực rỡ ánh dương hồng.
Như
Vân
(tên
gọi) Ni
sư Như Vân. Một vị giáo thọ xuất gia nữ, được Thầy
Làng Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế
với bài kệ truyền đăng như sau:
Tâm
bi Như sấm động.
Lòng từ tựa bạch Vân.
Suối cam lồ
nuôi dưỡng.
Khuya sớm mãi tinh cần.
Những
Cánh Mai Mùa Đông
(sách)
Một
cuốn sách phiên tả từ băng các bài giảng của Thầy
Làng Mai, xuất bản tại Việt Nam năm 2000.
Những
đóng góp của đạo Bụt cho một xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh
(văn
kiện)
Bài viết của Thầy Làng Mai, nguyên bản tiếng Anh, được
sử dụng làm tài liệu căn bản trong các buổi pháp đàm
tại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc 2008, sau đây là bản
dịch tiếng Việt.
“Lễ
Phật Đản Liên Hiệp Quốc lần thứ năm là dịp để
tất cả chúng ta tới với nhau như một đại gia đình,
như một cộng đồng cùng thừa hưởng nguồn tuệ giác
của Đức Bổn Sư. Chúng ta hãy cùng đón mừng niềm vui
sum họp và ý thức rằng nếu chúng ta biết cách nuôi
dưỡng mình bằng nguồn tuệ giác vĩ đại đó, chúng ta
sẽ có khả năng thay đổi xã hội hiện nay và cải thiện
chất lượng cuộc sống trên hành tinh này. Với sức mạnh
cộng đồng, chúng ta có thể làm được điều đó.
Chủ
đề cho sự quán chiếu của chúng ta năm nay là Những
cống hiến của đạo Bụt cho một xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh. Chúng ta không nên để Đại Lễ này
đơn giản chỉ là một diễn đàn của những ý tưởng
tốt đẹp như bao diễn đàn khác, mà chúng ta nên làm sao
để thực thi chúng ngay trong cuộc sống hằng ngày và áp
dụng vào xã hội những quyết định đã được cùng
nhau thông qua cũng như những tuệ giác tập thể đạt
được trong Đại lễ này. Với sự yểm trợ của tăng
thân, và sự thực tập Niệm - Định - Tuệ miên mật,
chúng ta có thể chia sẻ tuệ giác của chúng ta, chỉ rõ
con đường hành động và cam kết sống trong ánh sáng của
nguồn tuệ giác này, từ mức độ cá nhân tới cộng
đồng, từ thôn xóm, thành phố tới phạm vi toàn quốc.
Điều này cũng giống như một thầy, một sư cô không
thể chỉ học và nghiên cứu về giới bản
Ba-la-đề-mộc-xoa mà còn phải thực hành giới bản đó,
hay một người cư sĩ không chỉ nhận năm giới mà còn
phải áp dụng giới trong đời sống hằng ngày. Bản
Tuyên Cáo 2000 về một nền văn hóa hòa bình và bất bạo
động do UNESCO đưa ra đã được hơn 75 triệu người
(trong đó bao gồm rất nhiều các vị lãnh đạo quốc
gia) ký tên hưởng ứng, nhưng chúng ta đã không tổ chức
để những người đã đặt bút ký vào bản Tuyên Cáo
được yểm trợ và có điều kiện áp dụng sáu điểm
của Tuyên Cáo vào thực tế cuộc sống. Chỉ cùng đồng
ý với nhau rằng có con đường rất đẹp thì chưa đủ,
chúng ta cần phải thực sự lên đường.
Chúng
ta biết rằng để xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh, ta không thể chỉ hành động mà phải
nỗ lực tự chuyển hóa bản thân. Chúng ta phải thay đổi
bản thân trước khi muốn thay đổi xã hội. An lạc là
nền tảng tạo nên hòa bình. Nếu không có sự chuyển
hóa và trị liệu trong từng cá nhân, chúng ta không thể
giúp thay đổi xã hội. Vì vậy, sự thực tập của từng
cá nhân và sự thực tập của tăng thân rất cần thiết
cho việc thay đổi thế giới theo hướng chúng ta mong
muốn.
1.
Chiến tranh, xung đột và hàn gắn
Gốc
rễ của chiến tranh và xung đột nằm ngay trong chúng ta.
Chúng ta cần phải nhận ra, ôm ấp và chuyển hóa những
phiền não trong tự thân như giận hờn, thù hận, tuyệt
vọng, kỳ thị, ngã mạn. Sự thực tập là phải nhìn
sâu vào gốc rễ của những phiền não đó, hiểu thấu
và học cách chuyển hóa chúng. Chúng ta cần lắng nghe
những niềm đau nỗi khổ của bản thân, của gia đình,
của cộng đồng và của đất nước. Chúng ta cần có
khả năng giúp những người khác nhận ra rằng phiền não
có mặt trong mỗi con người và cách sống của chúng ta
đã tạo điều kiện cho những phiền não đó lớn mạnh.
Và mỗi người chúng ta phải cam kết không tưới tẩm
những hạt giống của bạo lực, hận thù, kỳ thị và
tuyệt vọng có sẵn trong mình. Trong các mối quan hệ, với
người bạn đời, với cha mẹ hay con cái, với anh chị
em, chúng ta phải có khả năng giúp đỡ lẫn nhau trong sự
thực tập, phải luôn học cách lắng nghe nhau với tâm từ
bi, luôn sử dụng lời ái ngữ để giúp người đó nhận
diện những phiền não trong bản thân họ. Chúng ta cũng
nên dùng lời ái ngữ để tưới tẩm những hạt giống
của hiểu biết, từ bi, hỷ lạc, của tình huynh đệ
đang tiềm ẩn trong mỗi người. Chúng ta cần giúp nhau
hàn gắn cho được các mối quan hệ cá nhân trước khi
giúp hàn gắn nhân loại và trái đất. Mỗi hơi thở, mỗi
bước chân, mỗi ý tưởng, mỗi lời nói và mỗi nụ
cười đều có khả năng trị liệu. Trái đất đang rên
xiết, xã hội đang than van, quá nhiều bạo động và
tuyệt vọng. Sự thực tập tư duy chân chính (là tư duy
đúng, tư duy theo hướng không kỳ thị, từ bi, hiểu
biết), lời nói chân chính, hành động chân chính và nghề
nghiệp chân chính của đạo Bụt là những điều rất
thiết yếu cho sự chữa trị mà tất cả chúng ta đang
cần đến. Các bạn trẻ nên học và thực tập con đường
của tám sự hành trì chân chính (Bát chánh đạo) trong
phạm vi gia đình, trường học. Những cuộc đàm phán hòa
bình chỉ thành công khi cả hai phía xung đột hiểu được
tình trạng của nhau và biết cách thực tập lắng nghe và
ái ngữ. Phương pháp thực tập này nên được giảng dạy
ngay từ những bậc học sơ đẳng nhất. Ta có thể gọi
đó là giáo dục hòa bình và chính là con đường giúp
thoát khỏi chiến tranh và bạo lực.
2.
Đóng góp của đạo Bụt cho một xã hội công bằng.
Tuyên Cáo 2000 đã đưa ra sáu điểm tương đương với
nội dung của năm phép thực tập chánh niệm (Năm Giới).
Cả sáu điểm và năm giới đều cùng chung mục đích là
tạo nền tảng cơ bản nhất cho hòa bình và công bằng
xã hội. Trong truyền thống Phật giáo, sau khi tiếp nhận
Năm giới, người thọ giới phải ôn tụng lại giới mỗi
hai tuần một lần và tham dự các buổi thảo luận (pháp
đàm) về giới để càng ngày cái thấy về giới luật
càng sâu cũng như tìm ra những phương pháp áp dụng giới
luật hay hơn vào thực tiễn cuộc sống gia đình và xã
hội. Năm phép thực tập chánh niệm chỉ cho chúng ta cách
sống đơn giản hơn, biết tận dụng thời gian và năng
lượng, bảo hộ sự sống và giúp đỡ những ai đang
thật sự cần giúp đỡ. Sống đơn giản mà vẫn có hạnh
phúc, có thời giờ chăm sóc bản thân và chăm sóc gia
đình, giúp đỡ người khốn khó và giúp làm cho xã hội
công bằng hơn, đó là điều chúng ta có thể làm được.
Rất nhiều người trong chúng ta cả đời chỉ biết chạy
theo danh vọng, quyền hành, sắc dục và tiền bạc, nhưng
ngay cả những người đã dư thừa bốn thứ trên vẫn
không tránh khỏi bất hạnh, khổ đau nếu họ không có
vốn liếng của hiểu biết và thương yêu.
Khi
thực tập giới thứ hai, nguyện chia sẻ thì giờ, năng
lực và tài vật với những kẻ đang thật sự thiếu
thốn, cuộc sống của chúng ta trở nên đầy ý nghĩa và
ta thấy mãn nguyện. Có rất nhiều phương cách mà đạo
Bụt và sự thực tập Năm giới có thể đem tới thêm
nhiều từ bi và công bằng cho xã hội. Khi trong ta có
chánh niệm, từ bi và hiểu biết, những hành xử của ta
sẽ tự nhiên trở thành nguồn trị liệu cho các mối
quan hệ cá nhân, cho cộng đồng và cho xã hội. Chúng ta
có ý thức trước những tình trạng bất công như kỳ
thị giới tính, coi thường người phụ nữ, đàn áp
thiểu số, lạm dụng trẻ em và người nghèo. Chúng ta có
rất nhiều cách nói lên trình trạng bất công và lên
tiếng cho những ai đang khổ đau mà bị bưng bít không có
phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và
quyền được làm người. Chúng ta có thể tổ chức những
buổi thiền hành cho hòa bình, từng bước chân bước
trong bình an. Đó sẽ không phải là những cuộc biểu
tình hay để phản đối một ai, đó là cách thức chân
chính nhất để thực tập thể hiện hòa bình, thể hiện
tình huynh đệ. Chúng ta cũng có thể viết những lá thư
cho các vị dân biểu. Tăng thân Làng Mai đã từng tổ
chức những khóa tu chánh niệm cho giới công an cảnh sát,
cho các đại biểu quốc hội, cho giới nghệ sĩ trong
ngành công nghiệp phim ảnh, cho các nhà bảo vệ môi
trường, cho các bác sĩ tâm lý trị liệu, giới doanh
thương, và cả cho những người Do Thái và Palestin. Năm
giới của đạo Bụt và sáu điểm của bản cam kết 2000
là sự thực tập hiểu biết và thương yêu đích thực.
Đó là con đường đưa tới một xã hội công bằng.
3.
Đạo Bụt nhập thế với vấn đề phát triển.
Đạo Bụt nhập thế trước tiên là một đạo Bụt được
thực tập không gián đoạn suốt cả ngày. Ta sống trong
chánh niệm và tập trung tâm ý khi đi, khi nấu ăn, khi lái
xe, khi vào nhà vệ sinh, v.v... Đạo Bụt nhập thế cũng
là sự thực tập Năm giới trong cuộc sống xã hội.
Chúng ta thực tập tình thương và sự hiểu biết trong
gia đình, trường học, công sở, bệnh viện, nhà tù, nhà
máy, trong quân đội, trong hội đồng nhân dân và cả
trong guồng máy công quyền. Sự hiện diện của chánh
niệm, chánh định và tuệ giác, tinh thần tương tức,
không kỳ thị, hiểu biết và từ bi chính là sự có mặt
của Phật giáo. Chúng ta đâu cần phải buộc tất cả
mọi người trở thành Phật tử. Chúng ta có thể truyền
cho họ nguồn cảm hứng để họ cũng sống và làm việc
trên tinh thần Bát Chánh Đạo. Chúng ta có thể tìm được
hạnh phúc trong khi thực tập phát triển hiểu biết và
từ bi. Hạnh phúc, thành công và sự tiến bộ của một
quốc gia không phải là chỉ số tổng sản lượng quốc
nội hay khả năng tiêu thụ mà phải được đo bằng mức
độ hiểu biết và từ bi.
Bốn
Tâm Vô Lượng (Từ - Bi - Hỷ - Xả) là những nguồn năng
lượng vô biên mà chúng ta có thể thực tập và phát
triển để nuôi lớn hạnh phúc của chúng ta và của thế
giới. Những nguồn năng lượng ấy không bao giờ là dư
thừa cả. Thực tập chánh niệm trong sản xuất và tiêu
thụ (giới thứ năm) sẽ đảm bảo cho chúng ta không đi
lệch hướng phát triển bền vững. Hạnh phúc chân thực
phải là nền tảng, là nguyên lý cho mọi chính sách sản
xuất, tiêu thụ và phát triển. Tuệ giác của đạo Bụt
là tuệ giác tương tức, là Chánh Kiến - cái thấy đúng
về thế giới, rằng vạn vật nương nhau mà biểu hiện.
Nếu những loài khác không còn tồn tại thì loài người
cũng không thể tồn tại được. Bảo vệ môi trường
chính là bảo vệ loài người. Chúng ta không chỉ là
thân, là tâm mà còn chính là môi trường. Môi trường
của chúng ta là y báo của cộng nghiệp. Sống đơn giản
hơn, tập thương yêu và hiểu biết, chăm sóc môi trường,
cùng nhau cam kết hành động cho một sự phát triển bền
vững, đó là chúng ta đang đi theo con đường của Bụt
vậy.
4.
Đạo Bụt với vấn đề khí hậu thay đổi.
Khai thác và sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên
như dầu hỏa, than đá, chặt phá rừng để cung cấp
nhiên liệu cho các phương tiện giao thông, cũng như tiêu
thụ thịt và những sản phẩm từ động vật là những
nguyên nhân chính của tình trạng trái đất nóng lên.
Theo một công bố của Liên Hiệp Quốc năm 2007, giải
pháp cho tình trạng này là giảm mức tiêu thụ thịt
xuống 50%, sử dụng những nguồn nhiêu liệu sạch cho xe
hơi và chỉ sử dụng xe hơi khi nào thật sự cần thiết.
Rất nhiều Phật tử không ăn thịt. Giảm bớt hay ngưng
lại hoàn toàn sự ăn thịt và sử dụng các thức uống
có cồn không phải là điều khó thực hiện. Những ai đã
thức tỉnh trước mức độ nghiêm trọng của tình trạng
hiện nay sẽ thấy cần phải hành động tức thì. Chúng
ta có thể thực tập “ngày không xe hơi” hay “ngày
không xe gắn máy” mỗi tuần. Chúng ta có thể sử dụng
xe hơi dùng cả xăng và điện. Chúng ta có thể chuyển
đổi xe hơi của mình sang loại chạy bằng dầu thực
vật. Chúng ta có thể đi bộ hay đi xe đạp đến trường
hay tới công sở. Chúng ta có thể thưởng thức những
món ăn chay rất ngon. Có rất nhiều cách chúng ta có thể
tiến hành ngay nhằm cứu lấy hành tinh này. Nền văn minh
của chúng ta sẽ tự hủy diệt nếu chúng ta không kịp
thời thức tỉnh.
5.
Đạo Bụt với các vấn đề trong gia đình.
Hạnh phúc của cha mẹ là món quà quý giá nhất mà các
bậc làm cha mẹ có thể dành tặng cho con cái mình. Cha mẹ
rất cần có thời gian để chăm sóc cho nhau và chăm sóc
con cái. Đừng để công việc hay những dự án cuốn mình
đi. Câu trả lời là một cuộc sống đơn giản, bởi vì
sống đơn giản chúng ta sẽ không chạy theo danh lợi và
sẽ đầu tư vào những gì quan trọng nhất, đó là hạnh
phúc và bình an của bản thân, của gia đình và của cộng
đồng. Sự thực tập lắng nghe và ái ngữ giúp chúng ta
duy trì và tái lập truyền thông. Con cái sẽ tự nhiên
học được từ cha mẹ cách thương yêu và chăm sóc nhau.
Nếu cha mẹ nghiện ngập, hút xách, con cái cũng sẽ làm
y như vậy. Năm phép thực tập chánh niệm đúng là nền
tảng đạo đức cho một đời sống gia đình. Tại rất
nhiều quốc gia Phật giáo hiện nay, vẫn còn rất nhiều
gia đình duy trì được truyền thống đi chùa mỗi nửa
tháng để tụng đọc Năm Giới và thực tập Làm Mới
(). Nếu không thực tập Làm Mới, sự thực tập tưới
tẩm những hạt giống lành trong mỗi người, nghệ thuật
lắng nghe và ái ngữ thì cha mẹ, vợ chồng không thể
nuôi dưỡng tình yêu thương và khó mà truyền thông với
nhau. Sự chuyển hóa và trị liệu là điều có thể thực
hiện được khi ta thực tập chánh niệm, và những cặp
vợ chồng có thể tránh được nạn ly hôn và trở thành
xa lạ đối với chính con cái mình.
6.
Giáo dục Phật giáo: tiếp nối và phát triển.
Ngày nay, nghiên cứu Phật giáo đã trở thành lý thuyết
suông. Chúng ta lấy được bằng tiến sĩ Phật học nhưng
vẫn không biết cách chuyển hóa khổ đau và phiền não
của bản thân. Chúng ta không biết nghệ thuật xây dựng
tăng thân, không biết cách giúp hòa giải xung đột trong
gia đình và trong cộng đồng, không biết thực tập giới,
định, tuệ. Kiến thức về đạo Bụt chỉ cho phép chúng
ta viết ra những cuốn sách về đạo Bụt và giảng dạy
về đạo Bụt. Chúng ta phải tổ chức lại việc nghiên
cứu Phật học để Viện nghiên cứu Phật học cũng phải
đồng thời là một Trung tâm thực tập. Thầy giáo và
học viên phải cùng nhau thực tập và người thầy phải
tự thân thực tập và kinh nghiệm sự chuyển hóa và trị
liệu trước khi được phép đứng trên bục giảng. Chúng
ta nên cùng thành lập những Viện Phật Học Ứng Dụng,
mở những khóa học và những khóa thực tập với mục
đích chuyển hóa và trị liệu. Trong các trường học,
con em chúng ta cần có cơ hội học cách làm chủ cơn giận
hay năng lượng bạo lực trong các em, học cách lắng nghe
với tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ.
Môn
học Giáo dục công dân và đạo đức Phật giáo cần
được giảng dạy như thế nào để ngay cả những em còn
rất nhỏ cũng có thể thực tập được.
7.
Đạo Bụt trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Trong
thời đại kỹ thuật số ngày nay, giáo pháp có khả năng
tới được với đông đảo quần chúng. Chúng ta có thể
ngồi ở nhà cách xa Thầy và tăng thân hàng trăm cây số
mà vẫn được nghe pháp thoại trực tiếp, dự pháp đàm
hay thậm chí ngồi thiền cùng Thầy và tăng thân. Chúng
ta vẫn có thể được hưởng lợi lạc từ tăng thân dù
tăng thân ở rất xa. Chúng ta có thể tải xuống những
tài liệu về giáo lý để nghiên cứu. Nhưng không gì có
thể thay thế được mối liên hệ gắn bó thân thiết
giữa thầy và trò, giữa một thành viên của tăng thân
với tăng thân. Vì vậy, sự thực tập xây dựng tăng
thân, giữa cá nhân với cá nhân là một bước rất quan
trọng. Để xây dựng tăng thân, chúng ta cần phải biết
phép lắng nghe, ái ngữ, hiểu biết, thương yêu và yểm
trợ. Một tăng thân qua liên lạc thư từ thì chưa đủ.
Một tăng thân thực tập giỏi luôn luôn chuyên chở được
Pháp sống và Phật sống. Vậy nên học cách xây dựng
một tăng thân vững mạnh là một thực tập rất thiết
yếu. Một tăng thân vững mạnh sẽ là chỗ nương tựa
cho rất nhiều người. Trong các Viện Phật học, môn học
dựng tăng phải là một môn quan trọng cần được học
và thực hành.
Một
việc khác quan trọng không kém là làm mới lại truyền
thống để có thể phù hợp với con người thời đại
ngày nay. Internet, kỹ thuật hiện đại có thể trở thành
những phương tiện thiện xảo giúp phổ biến giáo lý
đạo Bụt và giúp làm vơi khổ đau của con người. Chúng
ta có thể tải về máy tính âm thanh của tiếng chuông và
cài đặt chương trình để mỗi nửa giờ hay một giờ
lại được nghe tiếng chuông, giúp chúng ta dừng lại,
thở và quay về với chánh niệm. Mạng internet hiện nay
đang hỗ trợ rất nhiều người tiếp cận được với
giáo Pháp, điều này rất quan trọng, đặc biệt đối
với các bạn trẻ. Chúng ta cũng cần ứng dụng tuệ giác
đạo Bụt để tự bảo hộ trước những nguy hiểm do
công nghệ hiện đại gây ra. Trong giới bản
Ba-la-đề-mộc-xoa tân tu có những giới luật về sử
dụng internet, các thầy, các sư cô phải lên mạng lưới
internet cùng với một thầy hay sư cô khác để không bị
vướng vào những trang web không lành mạnh.
Đức
Bổn Sư đã hiến tặng cho chúng ta một công cụ chẩn
đoán rất tốt, đó là Tứ Diệu Đế - bốn sự thật
mầu nhiệm: Khổ, gốc rễ của Khổ, sự vắng mặt của
Khổ và sự thực tập nhổ rễ cái Khổ. Đạo Bụt phải
được thực tập dưới ánh sáng của Tứ Diệu Đế, và
sự chuyển hóa và trị liệu mà chúng ta đang cần phải
được diễn ra ngay ở đây và bây giờ, không thể đợi
tới sau này hay ở một thế giới khác. Chúng ta trình bày
những lý thuyết đạo Bụt rất giỏi nhưng chúng ta chưa
giỏi mấy khi đưa những giáo lý mầu nhiệm ấy vào thực
hành ngay ở đây và bây giờ. Sự thực tập, còn gọi là
Pháp sống, phải tốt đẹp ngay ở đây và bây giờ. Cùng
được xum họp với nhau trong Đại Lễ Phật Đản, chúng
ta hãy nhân cơ hội này, cùng nhau chia sẻ tuệ giác và sự
tỉnh thức, cùng nhau cam kết sống cuộc sống hằng ngày
trong ánh sáng của sự thức tỉnh và tuệ giác ấy, và
yểm trợ nhau cùng thực hiện. Những đóng góp của đạo
Bụt cho việc tạo dựng một xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh phải được thấy trong sự thực tập của
chính chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Sống có ý thức, tỉnh thức và thực hiện những cam
kết, chúng ta có thể chứng kiến sự chuyển biến của
xã hội từ chính sự thay đổi bản thân chúng ta.”
Những
Giọt Không
(sách)
Một
tuyển tập nhạc Làng Mai do nhạc sĩ Anh Việt sưu tập và
hiệu đính. Nhà Lá Bối, Hoa Kỳ xuất bản năm 1997.
Niệm
(thuật
ngữ)
1. Chánh niệm là năng lượng giúp cho ta thực sự có mặt trong giây phút hiện tại với thân và tâm hợp nhất. Chánh niệm là khả năng nhận diện nh?ng g? ?ang x?y ra trong gi?y ph?t hi?n t?i v? ngay t?i ??y trong lững gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại và ngay tại đây trong lĩnh vực thân, hoặc tâm, hoặc hoàn cảnh. Trái với chánh niệm là thất niệm, trạng thái quên lãng, tán loạn, rong ruổi, thân một nơi, tâm một nẻo. Chánh niệm chấm dứt thất niệm, đem tâm về với thân, có mặt thực sự trong giây phút hiện tại, giúp hành giả tiếp xúc với những gì đang có mặt trong giây phút ấy. Duy trì chánh niệm thì năng lượng chánh định được phát khởi và tăng cường. Với niệm lực và định lực hùng hậu, hành giả có thể nhìn sâu, quán chiếu và làm phát hiện tự tính của đối tượng quán chiếu, đó là tuệ giác. Tuệ giác có công năng chuyển hóa, trị liệu và giải phóng. Chánh niệm là điểm khởi hành của thiền tập, yếu tố đầu của trình tự tam vô lậu học là niệm, định và tuệ (có khi nói là giới, định, tuệ), vốn là trái tim của thiền tập. Các kinh căn bản dạy về niệm là kinh Niệm Xứ và kinh Niệm Thân. Hành giả thực tập để năng lượng chánh niệm được chế tác trong từng giây phút của cuộc sống hằng ngày, cả trong khi đánh răng, súc miệng, đi cầu, tắm gội, giặt áo, lái xe, làm vườn hay chấp tác. Có chánh niệm, hành giả sống sâu sắc được mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Nhờ chánh niệm miên mật, định lực được chế tác và trở nên hùng hậu có thể giúp hành giả chọc thủng được màn vô minh và đạt tới tuệ giác (xem chánh niệm).
2. Tùy niệm là chú tâm vào một đối tượng và duy trì đối tượng ấy, như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới.
3. Thời gian của một tư tưởng hay một tri giác, có thể là một sát na.
4. Một ý tưởng hay một khái niệm về thực tại, như ý niệm về sinh, về tử, về một, về nhiều, về có, về không, về đến, về đi, về ta, về người, về Phật, về chúng sinh. Những ý niệm sinh khởi từ tập khí biến kế (mental construction) không phù hợp với thực tại y tha khởi và viên thành thật. Vô niệm là thoát ra được ngoài những ý niệm ấy.
1. Chánh niệm là năng lượng giúp cho ta thực sự có mặt trong giây phút hiện tại với thân và tâm hợp nhất. Chánh niệm là khả năng nhận diện nh?ng g? ?ang x?y ra trong gi?y ph?t hi?n t?i v? ngay t?i ??y trong lững gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại và ngay tại đây trong lĩnh vực thân, hoặc tâm, hoặc hoàn cảnh. Trái với chánh niệm là thất niệm, trạng thái quên lãng, tán loạn, rong ruổi, thân một nơi, tâm một nẻo. Chánh niệm chấm dứt thất niệm, đem tâm về với thân, có mặt thực sự trong giây phút hiện tại, giúp hành giả tiếp xúc với những gì đang có mặt trong giây phút ấy. Duy trì chánh niệm thì năng lượng chánh định được phát khởi và tăng cường. Với niệm lực và định lực hùng hậu, hành giả có thể nhìn sâu, quán chiếu và làm phát hiện tự tính của đối tượng quán chiếu, đó là tuệ giác. Tuệ giác có công năng chuyển hóa, trị liệu và giải phóng. Chánh niệm là điểm khởi hành của thiền tập, yếu tố đầu của trình tự tam vô lậu học là niệm, định và tuệ (có khi nói là giới, định, tuệ), vốn là trái tim của thiền tập. Các kinh căn bản dạy về niệm là kinh Niệm Xứ và kinh Niệm Thân. Hành giả thực tập để năng lượng chánh niệm được chế tác trong từng giây phút của cuộc sống hằng ngày, cả trong khi đánh răng, súc miệng, đi cầu, tắm gội, giặt áo, lái xe, làm vườn hay chấp tác. Có chánh niệm, hành giả sống sâu sắc được mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Nhờ chánh niệm miên mật, định lực được chế tác và trở nên hùng hậu có thể giúp hành giả chọc thủng được màn vô minh và đạt tới tuệ giác (xem chánh niệm).
2. Tùy niệm là chú tâm vào một đối tượng và duy trì đối tượng ấy, như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới.
3. Thời gian của một tư tưởng hay một tri giác, có thể là một sát na.
4. Một ý tưởng hay một khái niệm về thực tại, như ý niệm về sinh, về tử, về một, về nhiều, về có, về không, về đến, về đi, về ta, về người, về Phật, về chúng sinh. Những ý niệm sinh khởi từ tập khí biến kế (mental construction) không phù hợp với thực tại y tha khởi và viên thành thật. Vô niệm là thoát ra được ngoài những ý niệm ấy.
Niệm
Bụt (thuật
ngữ)
Phát khởi và duy trì chánh niệm về Bụt. Cách thức phổ
thông nhất ở Làng Mai là trì tụng bài Bốn
phép tùy niệm trong
đó có bốn đối tượng quán niệm: Bụt, Pháp, Tăng và
Giới. Bài tùy niệm về Bụt (Buddhànusmarti)
nhắc đến 10 danh hiệu (cũng là khả năng) của Bụt là:
Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, hoàn toàn bằng tiếng
Việt rất dễ hiểu. Bài tùy niệm như sau: Tự
thân của đức Thế Tôn,
người từ chân như tới,
thầy của chúng con.
Là bậc xứng đáng nhất để được cúng dường.
Là bậc có trí giác chân thực và toàn diện.
Là bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác.
Là bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu.
Là bậc hiểu thấu thế gian.
Là bậc nhân sĩ cao tột có khả năng điều phục con người.
Là bậc thầy của cả hai giới thiên và nhân.
Là bậc tỉnh thức toàn vẹn.
Là bậc được tôn sùng quý trọng nhất trên đời.
Đọc về cuộc đời và công hạnh của Bụt, như đọc các tác phẩm: Phật Sở Hành Tán, Đường Xưa Mây Trắng, v.v… cũng là niệm Bụt. Trì tụng danh hiệu đức A Di Đà cũng là niệm Bụt. Chiêm ngưỡng một tượng Bụt hay quán tưởng về các tướng tốt quang minh của Bụt cũng là niệm Bụt. Tại các đạo tràng Làng Mai vào cuối những buổi cơm trưa theo nghi lễ, đại chúng hay trì tụng danh hiệu Đức Thích Ca, và danh hiệu các vị Bồ Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, và Địa Tạng để gửi năng lượng và hộ niệm cho những người đang gặp khó khăn, đó cũng là niệm Bụt. Xem gửi năng lượng chánh niệm.
người từ chân như tới,
thầy của chúng con.
Là bậc xứng đáng nhất để được cúng dường.
Là bậc có trí giác chân thực và toàn diện.
Là bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác.
Là bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu.
Là bậc hiểu thấu thế gian.
Là bậc nhân sĩ cao tột có khả năng điều phục con người.
Là bậc thầy của cả hai giới thiên và nhân.
Là bậc tỉnh thức toàn vẹn.
Là bậc được tôn sùng quý trọng nhất trên đời.
Đọc về cuộc đời và công hạnh của Bụt, như đọc các tác phẩm: Phật Sở Hành Tán, Đường Xưa Mây Trắng, v.v… cũng là niệm Bụt. Trì tụng danh hiệu đức A Di Đà cũng là niệm Bụt. Chiêm ngưỡng một tượng Bụt hay quán tưởng về các tướng tốt quang minh của Bụt cũng là niệm Bụt. Tại các đạo tràng Làng Mai vào cuối những buổi cơm trưa theo nghi lễ, đại chúng hay trì tụng danh hiệu Đức Thích Ca, và danh hiệu các vị Bồ Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, và Địa Tạng để gửi năng lượng và hộ niệm cho những người đang gặp khó khăn, đó cũng là niệm Bụt. Xem gửi năng lượng chánh niệm.
Niết
bàn
(danh
từ phật học)
Niết bàn không phải là một xứ sở trong thời gian và
trong không gian mà là tự thân của thực tại khi ta đã
đạt tới cái thấy sâu sắc về thực tại ấy. Vốn
vượt ra khỏi những gì đối lập như sinh tử, có không,
tới đi, lớn nhỏ, trước sau, này kia.
No
Death, No Fear (sách)
Một cuốn sách nguyên bản tiếng Anh của Thầy Làng Mai
do nhà Riverhead xuất bản năm 2002 tại New York. Được
dịch ra rất nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều
nước trên thế giới. Bản dịch tiếng Việt nhan đề
Không
diệt, không sinh, đừng sợ hãi, nhà
Lá Bối Hoa Kỳ ấn hành.
Nothing
to do, Nowhere to go (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, dịch từ nguyên tác
tiếng Việt Tinh
Yếu Lâm Tế Lục, do
nhà Parallax ấn hành năm 2007, nội dung là bình giảng tác
phẩm Lâm Tế Lục. Đây là cuốn sách bán chạy nhất của
nhà Parallax năm 2007, hơn cả cuốn The Energy of Power (Hiệu
lực cầu nguyện).
Notre
Dame de Paris (địa
danh)
Nhà thờ Đức Bà Paris, điểm đến của buổi thiền hành
giữa lòng thành phố Paris (xuất phát từ quảng trường
Edmond Rostand sát vườn Luxembourg) vào sáng ngày 22 tháng 10
năm 2006, nơi Sư Ông Làng Mai cùng toàn thể quí thầy quí
sư cô đang tu học tại Làng Mai Pháp Quốc và hơn bốn
ngàn người dừng chân ngồi thiền tạo nên một cảnh
tượng rất đẹp và hùng tráng.
Nói
pháp thoại (phép
tu)
Một phép thực tập của những vị giáo thọ và giáo thọ
tập sự. Nói pháp thoại đây không có nghĩa suông là
giảng dạy Phật Pháp mà là quán chiếu căn cơ của thính
chúng và cống hiến những giáo lý và phương pháp thực
tập thích hợp để giúp cho thính chúng ấy tiếp nhận
được cách thức tháo gỡ những khó khăn nội tâm và
hoàn cảnh của họ. Một bài pháp thoại chỉ trình bày
những kiến thức Phật Pháp có tính cách lý thuyết không
có tính thực tiễn và khế cơ thì không được công nhận
là một bài pháp thoại đích thực. Người nói pháp thoại
phải nói trên căn bản từ bi và kinh nghiệm thực tập
của mình mà không nói trên căn bản phô trương cái ngã
của mình.
Nói
Với Người Xuất Gia Trẻ Tuổi (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối, Hoa Kỳ xuất bản năm 1996 và được in nhiều lần
ở Việt Nam. Các vị ni sư và thượng tọa ở Việt Nam
thường cho in để phát cho các học tăng. Đọc sách này,
nhiều giới xuất gia đã khôi phục được tâm bồ đề
của mình.
Nói
Với Tuổi Hai Mươi (sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá
Bối ấn hành lần đầu năm 1965 tại Sài Gòn và đã được
tái bản nhiều lần ở trong nước và ngoài nước. Sách
này là kết quả của những buổi hội thảo của một số
sinh viên của các phân khoa đại học Sài Gòn tổ chức
tại viện Cao Đẳng Phật Học chùa Pháp Hội do Thầy
Làng Mai hướng dẫn vào năm 1964, gồm các đề tài liên
hệ tới tuổi trẻ như tình yêu, lý tưởng, học hành,
v.v… Ấn bản năm 1965 được đặt vào một cái hộp để
có thể trở thành món quà tặng bạn.
Nồi
Chưa Có Vung
(sách)
Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà in Lá Bối, Việt
Nam ấn hành khoảng năm 1997.
Nội
kết (thuật
ngữ)
Những hạt giống phiền não mới gieo hoặc sẵn có trong
tàng thức mà chưa chuyển hóa được như vướng mắc,
hờn tủi, căm thù, bạo động, tuyệt vọng. Cũng gọi là
kết sử, có tác dụng ràng buộc và sai sử. Tiếng phạn
gọi là samyojana.
Nội
kết êm ái
(thuật
ngữ)
Những nội kết khi gieo trồng và huân tập thì có tính
cách êm đềm dễ chịu, nhưng sau đó lại làm cho hành
giả mất tự do, như lạc thọ khi hút thuốc, uống rượu,
sử dụng ma túy, được khen ngợi, nuông chiều, nhất là
vương vấn tình ái.
Nội
Nghiêm
(tên
gọi)
Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 2005
(19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 (20
tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Viên Xuân, pháp
tự Chân Nội Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây
Hải Đường. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại Làng
Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ
362 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Nội Nghiêm thuộc thế hệ
thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái
Liễu Quán.
Nội
Viện Phương Khê
(điện
đường)
Khu vực yên tĩnh nhất của đạo tràng Mai Thôn, chỉ dành
riêng cho giới xuất gia. Tọa lạc cách thị trấn Duras
chừng tám phút xe hơi. Nội Viện có tên là Phương Khê
vì có một dòng suối thơm chảy qua (Phương Khê nghĩa là
suối thơm) và cũng có một rừng tre quanh năm xanh tốt,
nhiều cây tùng Thiên Thọ gốc từ Hi Mã Lạp Sơn, gọi
là cèdre
déodara.
Những ngôi nhà trong Nội Viện đã được xây cất trên
150 năm về trước. Tại Nội Viện Phương Khê có hai
thiền đường, một thư viện, nhiều liêu xá cho các thầy
và các sư cô sử dụng trong những ngày quán niệm và
những khóa tu dành riêng cho giới xuất gia. Nội Viện
cũng có một nhà in nhỏ, một văn phòng trung ương của
Giáo Hội Làng Mai, một kho lưu giữ những sách của Thầy
Làng Mai xuất bản bằng nhiều ngôn ngữ, và hồ sơ tài
liệu lưu trữ từ hồi Thầy Làng Mai còn là vị đại
diện cho GHPGVNTN tại hải ngoại (1966-1976). Trong các mùa
An Cư Kiết Đông, mỗi tuần vào ngày thứ ba là có ngày
quán niệm riêng cho giới xuất gia tại Nội Viện, còn
vào những mùa khác thì cứ vài tuần mới có một ngày
quán niệm như thế. Những bài pháp thoại nói tại Nội
Viện Phương Khê chỉ để dành cho giới xuất gia mà
thôi. Các vị tôn túc từ Việt Nam hoặc các nước khác
về dự các đại giới đàn hàng năm tại Làng Mai đều
được thỉnh về Nội Viện để tham gia và chơi với
Thầy Làng Mai. Lâu lâu vào những kỳ làm biếng lại có
một nhóm chừng mười thầy hay mười sư cô về nhập
thất tại Nội Viện trong vòng một tuần hay mười ngày.
Vào các ngày xuất sĩ, các thầy và các sư cô từ bốn
chùa Mai Thôn ưa cắm những chiếc lều đủ màu trong
khung viên Nội Viện, bên bờ suối, cạnh rừng tre, rất
đẹp. Vào tháng tư Tây, Thầy Làng Mai ưa hái măng tại
rừng tre này để làm món kho đãi các thầy và các sư
cô. Thầy Làng Mai có thư viện và văn phòng riêng tại
Nội Viện, nơi đây Thầy đã sáng tác các sách như Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận 3, Am Mây Ngủ, Tý - Cây Tre Triệu
Đốt, Trái Tim Mặt Trời, v.v… Nhà in tại Nội Viện đã
in nhiều tác phẩm để gửi về tặng đồng bào cư trú
tại các trại tỵ nạn, cho các thuyền nhân tại Thái
Lan, Phi Luật Tân, Indonesia, v.v… trong đó có cả sách học
tiếng Anh và tiếng Pháp để đồng bào học hỏi trong
thời gian chuẩn bị đi định cư. Văn phòng trung ương
của Giáo Hội Làng Mai do Sư cô Chân Không phụ trách,
ngày nào cũng có các thầy và các sư cô tới giúp làm
công việc, xếp hồ sơ, in tài liệu, làm giấy tờ cư
trú cho các thầy các sư cô từ các nước khác đến.
Thầy Làng Mai có chăm sóc một cái hiên gọi là hiên Thủy
Tinh có trồng nhiều loại lan và những loại hoa khác. Mỗi
mùa kết Đông an cư và trong các khóa tu mùa Hè, Thầy
Làng Mai thường cư trú ở chùa Pháp Vân xóm Thượng để
hướng dẫn tu học, và chỉ về Nội Viện mỗi tuần một
ngày vào ngày “Làm Biếng”. Mùa xuân và mùa thu, Thầy
Làng Mai thường đi dạy tại các nước Âu Châu và Mỹ
Châu. Những chuyến đi dạy Mỹ Châu thường kéo dài ít
nhất là hai tháng, trong thời gian ấy các thầy và các sư
cô phải thường xuyên đến Nội Viện để chăm sóc, cắt
cỏ, tưới hoa, để chờ Thầy về. Có thể trong tương
lai sẽ xây thêm liêu xá cho các thầy và các sư cô tại
Nội Viện.
Nước
Tĩnh (điện
đường)
Một thiền đường thuộc chùa Pháp Vân, Xóm Thượng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét